top of page

CHÚC MỪNG NGÀY PHỤ NỮ VIỆT NAM 20-10: CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ PHỤ NỮ VIỆT XƯA

Đã cập nhật: 14 thg 10, 2024

Phụ nữ Việt Nam qua ca dao

Lê Thương

Khi đề cập đến phụ nữ Việt Nam, ai ai cũng đều thừa nhận rằng từ ngàn xưa cho đến nay họ là những người đàn bà dịu hiền, thùy mị, đoan trang, đảm đang, trung trinh tiết hạnh, giàu lòng hy sinh. Trong gia đình thì hiếu thảo với cha mẹ, tảo tần lo cho chồng con, ra ngoài là những bậc anh thư liệt nữ. Chính những đức tính đẹp nầy đã nâng cao phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam:

Phụ nữ Việt Nam trung trinh tiết hạnh,
Trang điểm cuộc đời muôn cánh hoa thơm.
Ra ngoài giúp nước, giúp non,
Về nhà tận tụy chồng con một lòng.

Trong suốt chiều dài của dòng lịch sử và chiều sâu của lòng dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã liệt oanh viết nên những trang sử vàng son làm vẻ vang giống nòi như Bà Trưng, Bà Triệu; nữ tướng Bùi Thị Xuân của Quang Trung; Cô Giang, Cô Bắc của Việt Nam Quốc Dân Đảng… Còn về thi văn, ta có Bà Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Bà Hồ Xuân Hương, Bà Sương Nguyệt Ánh… đều là những nữ sĩ tài hoa, nức tiếng trên văn đàn, là những cánh hồng tươi thắm trong vườn hoa văn học. Ngoài ra, còn có biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác sống một cuộc sống bình thường, thầm lặng nơi thôn trang, xóm làng mà những nét đẹp về tâm hồn của họ được dân gian ca tụng bằng những áng văn, những vần thơ, điệu hát, câu hò hay qua những vần ca dao phong phú.




Đề cập đến văn chương, chúng ta không thể nào bỏ qua nền thi ca bình dân mà ca dao là một trong những thể loại quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc và lạc vào rừng ca dao của kho tàng văn học, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam qua những đức tính cao quý của họ:

Nói đến phụ nữ Việt Nam, trước hết phải nói đến lòng hiếu thảo đối với mẹ cha và tiết hạnh đối với bản thân. Không phải chỉ có một nàng Kiều của cụ Nguyễn Du mới biết báo hiếu mà bất cứ người con gái Việt Nam nào cũng đều nhớ đến ơn sinh thành, công lao nuôi dưỡng bao la của đấng song thân:

Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Đó là đối với cha mẹ, còn đối với bản thân thì:

Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trao mình.

Người phụ nữ Việt Nam, ngay từ lúc còn ẵm ngửa cho đến khi biết lật, biết bò lớn dần trong nhịp võng đưa qua tiếng hát của bà ru cháu, mẹ ru con, chị ru em:

Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

Hay qua điệu hát ầu ơ:

Ầu ơ… Bao giờ Chợ Quán hết vôi,
Thủ Thiêm hết giặc, em thôi đưa đò.
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.

Hoặc qua điệu ru ạ ờ:

Ạ ờ… Cái ngủ mày ngủ cho lâu,
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về.
Bắt được con cá rô, trê,
Tròng cổ lôi về cho cái ngủ ăn…

Những vần ca dao mộc mạc, bình dị đã đưa em bé gái Việt Nam vào giấc ngủ an bình và từ ngày nầy qua ngày khác, tiếng ru lắng đọng, thẩm thấu vào tiềm thức của em bé nên sau nầy lớn lên thành chị, thành mẹ, thành bà lại hát để ru em, ru con, ru cháu theo nhip võng đưa kẽo kẹt đều đều.

Hát ru em, hát ầu ơ, ạ ờ là một điệu hát thông dụng được phổ biến từ thôn xóm, làng mạc cho đến thị thành. Hát ru em là một bản trường ca bất tận của kho tàng văn chương Việt Nam. Vào những buổi trưa vắng lặng hay những đêm khuya yên tĩnh, cùng với tiếng võng đưa, giọng hát ầu ơ, ạ ờ dịu dàng, trìu mến của bà, của mẹ, của chị vang mãi trong lòng đứa trẻ ấu thơ. Tiếng võng đưa kẽo kẹt đều đều cùng với tiếng hát đã văng vẳng từ bao thề hệ trên đất nước Việt Nam theo dòng sinh mệnh của dân tộc. Trải qua bao nhiêu thế hệ, trong mọi gia đình, nghèo cũng như giàu, cái nhịp đều đều của tiếng võng đưa không bao gời dứt. Không có người Việt Nam nào không từng hơn một lần nằm võng và tiếng võng đưa hòa cùng tiếng trẻ khóc, tiếng hát ru đã trở thành điệu nhạc muôn đời của dân tộc ta.

Thấm thoắt, em bé gái Việt Nam nho nhỏ ngày nào nay đã lớn dần và có thể giúp đỡ mẹ những công việc lặt vặt. Một đôi khi lầm lỗi trong công việc bị mẹ quở mắng hay đánh đòn, em không bao giờ dám oán trách mẹ. Nếu bị quở mắng thì nhỏ nhẹ rằng:

Mẹ ơi đừng mắng con hoài,
Để con bẻ lựu, hái xoài mẹ ăn.

Còn nếu bị đánh đòn, nàng chỉ thỏ thẻ:

Mẹ ơi đừng đánh con đau,
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.

Theo thời gian, cô bé Việt Nam bây giờ đã trở thành thiếu nữ dậy thì, trước khi lấy chồng, một đôi lúc ngồi nhìn những hạt mưa rơi, nàng nghĩ vẩn vơ:

Thân em như hạt mưa rào,
Hạt sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

Hay bâng khuâng tự hỏi:

Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Ngồi cành trúc, tựa cành mai,
Đông đào, tây liễu biết ai bạn cùng?

Đến tuổi dậy thì, phụ nữ Việt Nam trổ mã, đẹp dần lên. Mỗi nàng một vẻ đẹp riêng, người thì đẹp qua đôi mắt, người khác đẹp ở mái tóc, có cô đẹp qua nụ cười, cô khác đẹp bằng hai má lúm đồng tiền, có người đẹp với chiếc eo thon thon, dáng đi yểu điệu, có người đẹp trừu tượng qua tâm hồn… Tóm lại, mỗi người một vẻ để làm rung động hay làm xao xuyến con tim của người khác phái.




Những phụ nữ có đôi mắt lá răm, lông mày lá liễu được ca dao khen rằng:

Những người con mắt lá răm,
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.

Hay những người có làn da trắng nõn, má lại hồng hồng, môi đỏ thắm:

Ai xui má đỏ, môi hồng,
Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu.

Đã đẹp mặt mà còn đẹp về vóc dáng nữa thì “chim phải sa, cà phải lặn” cho nên những phụ nữ có chiếc eo thon thon:

Những người thắt đáy lưng ong,
Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.

Mái tóc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc trang điểm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam:

Tóc em dài em cài bông hoa lý,
Miệng em cười anh để ý anh thương.

Mái tóc dài, đẹp còn làm xao xuyến lòng người:

Tóc đến lưng vừa chừng em bới,
Để chi dài bối rối dạ anh.

Nụ cười là nét duyên dáng, nét quyến rũ của người phụ nữ. Từ xưa cho đến nay có rất nhiều đàn ông đã chết vì nụ cười của phái đẹp:

Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng,
Thương em chúm chím cười duyên một mình.

Cũng thế, ta thường nghe ai đó ngâm hai câu ca dao:

Nàng về nàng nhớ ta chăng,
Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười.

Và ca dao cũng không quên ca tụng nét đẹp tâm hồn của phụ nữ Việt Nam:

Chim khôn hót tiếng rảnh rang,
Người khôn ăn nói dịu dàng dễ thương.

Phụ nữ Việt Nam vốn cháu con Quốc Mẫu Âu Cơ, dòng dõi tiên nên nhu mì, thùy mị được tiếng là đẹp, rất đẹp, nhất là trong chiếc áo dài tha thướt với vành nón lá che nghiêng nghiêng mái tóc xõa bờ vai. Có biết bao nhiêu chàng trai đã trồng cây si ở cổng trường Trưng Vương, Gia Long, Đồng Khánh, Sương Nguyệt Ánh, Bùi Thị Xuân… vì những tà áo dài thướt tha nầy và mái trường đã từng là chứng nhân của những mối tình đẹp tựa bài thơ, đẹp như đêm trăng huyền ảo. Trước cái đẹp của phụ nữ Việt Nam, mấy ai thuộc phái nam đã không từng cất giấu trong tim một bóng hồng của thời yêu thương ướt át:

Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan,
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Chín thương em ở một mình,
Mười thương con mắt đưa tình với anh.

Nét đẹp của phụ nữ Việt Nam còn làm cho trái tim nhà vua đập sai nhịp vì bị “tiếng sét ái tình”:

Kim Luông có gái mỹ miều,
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi..

Dân tộc Việt Nam là dân tộc hiền hậu, hiếu hòa, cần cù nhẫn nại lại trọng đạo lý cho nên khi con cái vừa lớn khôn thì được gia đình, nhà trường, xã hội dạy những bài học luân lý về cung cách ở đời, ăn ở có nhân có nghĩa theo đạo lý làm người và phụ nữ Việt Nam cũng được giáo huấn:

Con ơi mẹ bảo con này,
Học buôn, học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói điêu ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.

Nhờ được giáo huấn cho nên phụ nữ Việt Nam đoan trang, thùy mị, nết na:

Sáng nay tôi đi hái dâu,
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.
Hai anh đứng dậy hỏi han,
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu?
Thưa rằng tôi đi hái dâu,
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn.
Thưa rằng bác mẹ tôi răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.

Và xa hơn nữa:

Ở nhà còn mẹ, còn cha,
Lẽ đâu tôi dám nguyệt hoa cùng người.

Phụ nữ Việt Nam khi đến tuổi bước vào con đường yêu đương thì yêu nhẹ nhàng, kín đáo. Nhẹ nhàng đến nỗi tình yêu của nàng len lén len lỏi vào tim hồi nào mà chàng trai không hay:

Vói tay ngắt lấy cọng ngò,
Thương anh muốn chết giả đò ngó lơ.

E thẹn, giả đò ngó lơ, len lén ngó mà không dám ngó lâu là những cử chỉ yêu đương nhẹ nhàng, kín đáo rất dễ thương của người phụ nữ Việt Nam:

Ngó anh không dám ngó lâu,
Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.

Nhưng khi đã yêu thì phụ nữ Việt Nam yêu một cách đứng đắn, yêu đậm đà, tha thiết với tất cả con tim mình:

Qua đình ghé nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.

Tình yêu của nàng còn sâu đậm hơn nữa:

Yêu chàng lắm lắm chàng ôi,
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than.

Khi yêu, ngoài tình yêu đậm đà, tha thiết, phụ nữ Việt Nam lại còn chung tình:

Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.

Và chung tình cho đến chết vẫn còn chung tình:

Hồng Hà nước đỏ như son,
Chết thì chịu chết, sống còn yêu anh.

Trước khi lấy chồng, phụ nữ Việt Nam cũng có thừa thông minh để lựa chọn ý trung nhân:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng lâu nay.

Hay mượn những vần ca dao nhắn nhủ với giới mày râu rằng muốn kết duyên vợ chồng, gá nghĩa trăm năm với phụ nữ Việt Nam thì:

Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ,
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu.
Anh về học lấy chữ nhu,
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.

Đến ngày bước lên xe hoa về nhà chồng, phụ nữ Việt Nam không quên lạy tạ ơn sinh thành của cha mẹ:

Lạy cha ba lạy, một quì,
Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng.


(Tranh: Monographie dessinée de l’Indochine)
Khi cất bước ra đi về làm dâu nhà chồng, một lần cuối nàng cố ghi lại những kỷ niệm của thời thơ ấu vào tâm khảm:

Ra đi ngó trước, ngó sau,
Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng.

Rồi lúc đã có chồng, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn tâm niệm:

Chưa chồng đi dọc, đi ngang,
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.

Hay:

Đã thành gia thất thì thôi,
Đèo bòng chi lắm tội Trời ai mang.

Lấy chồng, người phụ nữ Việt Nam đẹp duyên cùng chồng:

Trầu vàng ăn với cau xanh,
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.

Và có hình ảnh nào đẹp hơn vợ chồng hạnh phúc trong cảnh thanh bần:

Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.

Dù nghèo, thanh bần nhưng phụ nữ Việt Nam học theo triết lý an phận, vẫn chung tình với chồng, không đứng núi nầy trông núi nọ:

Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.

Tinh thần chịu khó, chịu cực và khuyến khích chồng ăn học cho thành tài được diễn đạt qua những vần cao dao làm nổi bật đức tính hy sinh của phụ nữ Việt Nam:

Canh một dọn cửa, dọn nhà.
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.
Canh tư bước sang canh năm,
Anh ơi dậy học chớ nằm làm chi.
Mốt mai chúa mở khoa thi,
Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh.
Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Bõ công cha mẹ sắm sanh,
Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.

Đã có chồng con, người phụ nữ Việt Nam lại càng đảm đang, vừa lo cho con vừa lo toan mọi công việc nhà chồng.


Hoặc:

Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.

Có con, người phụ nữ Việt Nam lại gánh thêm trách nhiệm làm mẹ với tình mẫu tử thiêng liêng:

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy thức đủ năm canh.

Tình mẫu tử của những bà mẹ Việt Nam bao la như trời bể, luôn luôn bảo bọc, che chở cho con:

Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.

Ngoài ra, phụ nữ Việt Nam còn phải đối diện với cảnh làm dâu nhà chồng:

Làm dâu khổ lắm ai ơi,
Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than.

Còn nếu đất nước gặp thời chinh chiến, người phụ nữ Việt Nam không bịn rịn mà hăng hái khuyến khích chồng hành trang lên đường trả nợ núi sông:

Anh đi em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ.
Lầm than bao quản muối dưa,
Anh đi anh liệu chen đua với đời.

Phụ nữ Việt Nam, ngoài những đức tính đảm đang, giàu lòng hy sinh, nết na, thùy mị còn là người con rất mực hiếu thảo:

Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang,

Lòng nhớ công ơn cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng của người phụ nữ Việt Nam còn đươc diễn đạt qua mấy câu:

Ân cha lành cao như núi Thái
Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi.
Dù cho dâng trọn một đời,
Cũng không trả hết ân người sinh ta.

Những món quà nho nhỏ như buồng cau, đôi giày nhưng nói lên lòng hiếu thảo, lòng nhớ ơn công cha nghĩa mẹ của người phụ nữ Việt Nam:

Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy




Hay là:

Ai về tôi gởi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.

Khi phải đi xa hay lấy chồng xa, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn tưởng nhớ về mẹ cha:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Phụ nữ Việt Nam còn gắn liền với dân tộc và lịch sử vì thế khi tổ quốc lâm nguy, khi sơn hà nguy biến người phụ nữ Việt Nam hăng hái đưa vai gánh vác giang sơn như trường hợp Bà Trưng, Bà Triệu và những vị anh hùng liệt nữ khác.

Hai chị em Bà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị, quê quán làng Cổ Lai, đất Mê Linh. Lúc ấy nước nhà đang bị người Tàu cai trị bằng chính sách hà khắc khiến dân ta vô cùng khốn khổ. Rồi vào năm 40, sau Tây Lịch, Thái Thú Tô Định lại bắt giết ông Thi Sách, chồng Bà Trưng Trắc làm cho nợ nước chồng chất thêm thù nhà cho nên Bà Trưng Trắc cùng em là Bà Trưng Nhị đứng lên chiêu tập binh mã, anh hùng hào kiệt khắp nơi để đánh đuổi quân xâm lăng bạo tàn. Quân binh của Hai Bà chiến đấu rất dũng mãnh, chiếm được 65 thành, đánh đuổi quân Tô Định chạy về Tàu. Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, dân chúng tôn Bà Trưng Trắc lên làm Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Đến năm 42, vua Tàu là Quang Vũ nhà Đông Hán sai Mã Viện kéo quân qua phục thù. Trước địch quân hùng hậu, quân ta chống cự không lại nên Hai Bà đã gieo mình xuống giòng Hát Giang tuẫn tiết.

Không có hình ảnh nào vừa hào hùng, vừa lãng mạn cho bằng hình ảnh của hai vị liệt nữ anh hùng gieo mình xuống giòng nước trả nợ núi sông và để lại gương “Thiên thu thanh sử hữu anh thư”. Hai Bà Trưng làm vua được 3 năm, từ năm 40 đến năm 43. Khi vua Tự Đức đọc đoạn sử Hai Bà Trưng, ngài đã ngự phê: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách”. Và Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã ghi lại công nghiệp của Hai Bà bằng những vần ca dao lịch sử:

Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên,
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.

Còn Bà Triệu, tên thật là Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa vào năm 248, sau Tây Lịch để chống lại quân xâm lăng Đông Ngô của Tàu. Bà còn trẻ nhưng rất can đảm, Bà thường nói:

“Tôi muốn cỡi gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém kình ngư ở biển đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân cứu nước chứ không thèm bắt chước người đời còng lưng làm tì thiếp người ta”.

Ra trận Bà cỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong làm quân Ngô khiếp sợ. Nghĩa binh tôn Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân. Bà Triệu đã anh dũng đền nợ nước khi Bà mới có 23 tuổi:

Ru con, con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Có Bà Triệu Tướng cỡi voi bành vàng.

Bà Trưng, Bà Triệu là những bậc nữ lưu anh hùng đầu tiên trong lịch sử thế giới nổi lên sớm nhất chống ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc. Rất lâu về sau nầy nước Pháp mới có nữ anh hùng Jeanne D’ Arc nhưng sự nghiệp của Bà Jeanne D’ Arc cũng không lẫm liệt bằng công nghiệp to lớn, lẫy lừng của Bà Trưng, Bà Triệu.

Thật xứng đáng:

Phấn son tô điểm sơn hà,
Làm cho tỏ mặt đàn bà Việt Nam!

Mẹ tôi là phụ nữ Việt Nam, tôi rất hãnh diện được làm một người con của phụ nữ Việt Nam. Tôi hết lòng kính yêu mẹ tôi và tôi cũng hết lòng kính mến người phụ nữ Việt Nam qua những cái đẹp và những đức tính cao quý của họ.

Lê Thương
Richmond – Virginia
Đăng lại có chỉnh sửa từ Tạp chí Quê Hương Online (QueHuongOnline.vn)

Bạn đang sao chép nội dung của Trí Thức VN. Nếu là cá nhân sử dụng, vui lòng ghi rõ nguồn trithucvn.co. Nếu là website, kênh truyền thông, vui lòng chỉ sử dụng nội dung khi có sự cho phép của Trí Thức VN.

Những Câu Ca Dao Về Số Phận Người Phụ Nữ Phong Kiến




Trong kho tàng văn học dân gian của nước ta luôn gắn liền với những nỗi niềm của người nông dân. Ca dao, tục ngữ là tiếng lòng của những người nông dân lao động thấp cổ bé họng trong thời kỳ phong kiến. Đặc biệt, trong xã hội xưa thân phận người phụ nữ luôn bị xem thường, coi nhẹ bởi toàn xã hội điều “trọng nam khinh nữ”. Sau đây là Những Câu Ca Dao Về Số Phận Người Phụ Nữ Phong Kiến nói lên điều đó:

Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Thân em như miếng cau khô
Người thanh chuộng mỏng, người thô tham dày
Thân em như thể bình vôi
Bỏ lăn bỏ lóc mồ côi một mình
Chị em ai thấy đừng khinh
Đỏ môi thắm miệng nhờ mình chớ ai

Thân em làm lẽ chẳng hề
Có như chính thất mà lê giữa giường
Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Ðến khi chồng xuống, gà đã o o gáy dồn
Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn?
Mày cho tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con!
Thân em đi lấy chồng chung
Khác nào như cái bung xung chịu đòn
Em như tố nữ trong tranh
Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai
Tiếc thay mắt phượng mày ngài
Hồng nhan thế vậy nỡ hoài tấm thân
Em là con gái nhà quê
Ham bên tài sắc nhiều bề ái ân
Chẳng ham tham phú phụ bần
Duyên rằng duyên phải nợ nần nhau đây
Chàng có sang, chàng phải chọn ngày
Mối manh cho rõ xe dây xích thằng
Cầm cân chàng nhấc cho bằng
Một bên cối đá một đằng tiền cheo
Hỏi chàng rằng có hay nghèo
Lệ làng phải sửa bấy nhiêu mới từng
Bậu ra ngắm bóng bậu mà coi
Hường nhan chi bậu mà đòi cửa cao




Ca Dao Về Số Phận Người Phụ Nữ Xưa Hay

Cùng thưởng thức những câu Ca Dao Về Số Phận Người Phụ Nữ Xưa Hay:

Thân em như đóa hoa rơi
Phải chăng chàng thật là người yêu hoa
Năm nay em đi làm dâu
Thân khác gì trâu mang theo ách
Năm nay em đi làm vợ
Thân mang cày, dây khiến không biết ai?
Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm.
Thân em như con cá trong bồn
Không ăn có chịu, tiếng đồn oan chưa!
Thân em làm tốt làm lành
Lấy chồng làm lẽ như giành thủng trôn
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa
Thân em như như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Bông lài trộn lộn bông ngâu
Tiếc hường nhan bậu làm dâu bên Tàu
Thân em như cam quýt bưởi bòng
Ngoài tuy cay đắng trong lòng ngọt ngon
Chén son để cạnh mạn thuyền
Chén son chưa cạn, lời nguyền chưa phai
Em thương nhớ aiNhớ ai ra đứng đầu cầu?
Lược thưa biếng chải, gương tàu biếng soi
Cái sập đá huê bỏ vắng không ai ngồi
Buồng hương bỏ vắng, mướn người quay tơ
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Đêm khuya thức ngủ, ngày thưa tiếng cười?
Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng




Tuyển Tập Ca Dao Về Số Phận Người Phụ Nữ Phong Kiến Đặc Sắc

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
Thân em như trái xoài trên cây
Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc,
đánh lúc la, lúc lắc trên cành
Một mai rơi xuống biết đành vào tay ai?
Thân em mười sáu tuổi đầu
Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người
Nói ra sợ chị em cười
Năm ba chuyện thảm, chín mười chuyện cay
Tối về đã mấy năm nay
Buồn riêng thì có, vui rày thì không
Ngày thời vất vả ngoài đồng
Tối về thời lại nằm không một mình
Có đêm thức suốt năm canh
Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò
Lợi danh cạm bẫy trên đời
Hồng nhan là bả những người tài hoa
Dấu hèn cũng ngựa nhà quan
Kiều khấu rách nát hường nhan hãy còn
Lạy cha hai lạy một quỳ
Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng
Mẹ sắm cho con cái yếm nhất phẩm hồng
Thắt lưng đũi tím, bộ nhẫn đồng con đeo tay
Làm chi thiệt phận hồng nhan
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng
Thân em như cá rô mề
Lao xao giữa chợ biết về tay ai
Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi




Kho Tục Ngữ Về Phụ Nữ Phong Kiến Ngắn Hay

Có thể các bạn sẽ yêu thích những câu ca dao và Kho Tục Ngữ Về Phụ Nữ Phong Kiến Ngắn Hay:

Thân em cúc mọc bờ rào
Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ bông
Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai
Trời một vùng đêm dài không hạn
Mượn gió chiều hỏi bạn ngàn sôngThân em là gái chưa chồngTơ duyên có chắc như dòng nước không?
Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tấp vào đâu?
Thân em như bông cúc trên trang
Thân anh như manh chiếu rách bạn hàng bỏ quên
Hồng nhan như bát nước chè
Đẹp thì có đẹp nhưng què một chân
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân
Thân em như tấm lụa đào
Còn nguyên hay đã xé vuông nào cho ai?–
Thân em như tấm lụa đào
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai
Em vin cành trúc, em dựa cành mai
Đông đào tây liễu biết lấy ai bạn cùng
Thân em vừa đẹp vừa giòn
Thân đi làm mọn, cúi lòn khổ thay
Thân gái bến nước mười hai
Gặp nơi trong đục may ai nấy nhờ




Chùm Ca Dao Về Số Phận Người Phụ Nữ Phong Kiến Ý Nghĩa

Tiếp tục bài viết là tuyển tập Chùm Ca Dao Về Số Phận Người Phụ Nữ Phong Kiến Ý Nghĩa:

Thân em như thể quả đa
Gió lay rụng xuống, người ta giày vò
Chém cha cái kiếp chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Em như hoa gạo trên cây
Anh như một đám cỏ may bên đường
Lạy trời cho cả gió sương
Hoa gạo rụng xuống, lại luồn cỏ may
Thân em như miếng cau khô
Người thanh tham mỏng, người thô tham dày
Thân em thẳng như cái cột buồm
Hai bên chằng kéo, sợ luồng gió Đông
Thân em như cá trong lờ
Hết phương vùng vẫy biết chờ nơi đâu
Thân em như cột đình trung
Tay dơ cũng quẹt, tay phung cũng chùi
Em nghĩ thân em như kiếng lấm lem cát bụi,
Ai đó lau chùi, biết tới buổi nào xong?




Ca Dao Về Số Phận Người Phụ Nữ Phong Kiến Sâu Sắc

Thân em vất vả trăm bề
Sớm đi ruộng lúa tối về ruộng dâu
Có lược chẳng kịp chải đầu
Có cau chẳng kịp têm trầu mà ăn
Thân em như cánh hoa hồng
Lấy phải thằng chồng như cứt bò khô.
Thân em là gái xuân xanh
Nhưng em thấy chệch, em đành kết duyên
Thân em như cá dưới đìa
Kẻ nơm người xúc biết vìa tay ai
Thân em như tấm lụa điều
Phất phơ trước chợ nhiều điều đáng thương
Dốc lòng trồng cửu lý hương
Ba năm hai lá, người thương giã đầu
Thân em làm lẽ vô duyên
Mỗi ngày một trận đòn ghen tơi bời
Ai ơi ở vậy cho rồ
iCòn hơn làm lẽ, chồng người khổ ta
Gà lạc chuồng gà kêu chíp chíp
Em làm dâu sướng ít cực nhiều
Bữa cơm trưa em khóc, bữa cơm chiều em than
Em than với anh em làm dâu thơ ấu
Em làm dâu không phụ mẫu mình
Phụ mẫu mà dằn mâm, xáng chén
Em ở không bền quá anh ơi!
Thân em như tấm mít xơ
Chó chê không cạp, ai ngờ anh thương!




Các Câu Tục Ngữ Về Số Phận Người Phụ Nữ Nổi Tiếng 

Nhất định đừng bỏ qua trọn bộ Các Câu Ca Dao, Tục Ngữ Về Số Phận Người Phụ Nữ Nổi Tiếng:

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, thấy mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, thấy bát ngát mênh mông
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai
Thân em như gốm Thanh Hà,
Như chiếu Bàn Thạch trải đà khắp nơi
Thân em như áo mới may
Như cau bửa miếng bỏ trên khay trầu
Trăm năm không bỏ ngãi chàng đâu
Vì bà Nguyệt Lão đã bắc cầu lương duyên
Thân em như cải mùa đông
Non thì ăn ghém, có ngồng làm dưa
Thân em như đám rau dừa
Non thì cho lợn, già vơ độn chuồng
Thân em như thể cánh bèo
Ngược xuôi, xuôi ngược theo chiều nước trôi
Thân anh cùng đất cuối trời
Nước ngược ta lên ngược nước, nước xuôi ta xuôi cùng
Thân em như chiếc nón cời,
Bung vành đứt đoác, chịu đời nắng mưa
Thân em như giấy nửa tờ
Chớ nghi mà tội, chớ ngờ mà oan
Thân em như lọn nhang trầm
Không cha, không mẹ, mọi phần cậy anh



Những câu tục ngữ nói về trọng nam khinh nữ phê phán cực hay

Trọng nam khinh nữ có từ khi nào?

Quan niệm trọng nam khinh nữ có nguồn gốc từ triết lý Nho giáo

Triết lý Nho giáo, với tư tưởng “nam tôn nữ ti” (nam giới được tôn trọng, nữ giới bị khinh rẻ), đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy và lối sống của người Việt từ thời phong kiến. Trong hệ thống giá trị của Nho giáo, nam giới được xem là trụ cột của gia đình và xã hội, còn nữ giới chỉ đóng vai trò phụ thuộc, được xem là “người phụ nữ hiền đức” và phải tuân theo 3 ngôi vị (tam tòng) và 4 đức tính (tứ đức).

Những quan niệm này đã dần trở thành những chuẩn mực ứng xử và định hình vai trò của nam nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ trở thành điều “tự nhiên” và “hợp lý” trong xã hội.


Trọng nam khinh nữ thể hiện rõ trong hệ thống pháp luật và chính sách xã hội thời phong kiến

Trong thời kỳ phong kiến, những quan niệm phân biệt giới tính được thể chế hóa một cách rõ ràng trong hệ thống pháp luật và chính sách xã hội. Các văn bản pháp lý như Gia Định Thành Thông Chí, Hoàng Việt Luật Lệ, Quốc Triều Hình Luật… đều có những quy định phân biệt đối xử giữa nam và nữ.
Ví dụ, trong Gia Định Thành Thông Chí có ghi: “Người nam có tội thì được tha thứ, còn người nữ thì không được tha thứ”. Hoặc trong Hoàng Việt Luật Lệ có quy định: “Người con gái không được thờ cúng ông bà, không được được chia gia tài, không được chọn chồng, không được đi lấy chồng”.
Những quy định như vậy đã hợp pháp hóa và chính thức hóa việc phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong xã hội Việt Nam thời phong kiến.
Trọng nam khinh nữ thể hiện trong những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ
Ngoài việc được ghi chép trong các văn bản pháp lý, quan niệm “trọng nam khinh nữ” còn được thể hiện rõ nét trong những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ dân gian. Những câu tục ngữ này phản ánh sâu sắc tư tưởng và nhận thức của người dân về vị trí, vai trò của nam và nữ giới trong gia đình, xã hội.

Chẳng hạn như:

  • “Sinh con trai như trời cho, sinh con gái như trời罪” (Sinh con trai thì như được trời ban phúc, còn sinh con gái thì như là có tội với trời)
  • “Một trai bằng ba gái” (Một con trai bằng ba con gái)
  • “Con gái như hoa dễ úa” (Phụ nữ dễ bị hư hỏng, mất giá trị như hoa dễ tàn)
  • “Con trai như cột nhà, con gái như cành liễu” (Con trai là trụ cột của gia đình, còn con gái chỉ là để trang trí, phụ thuộc)
Những câu tục ngữ như vậy đã in sâu vào ý thức của người dân, khiến quan niệm trọng nam khinh nữ ngày càng trở nên phổ biến và ăn sâu vào trong văn hóa xã hội Việt Nam.

Những câu tục ngữ nói về trọng nam khinh nữ phê phán cực hay
Tục ngữ, ca dao thể hiện ưu tiên nam giới trong gia đình và xã hội
Như đã đề cập, trong xã hội phong kiến Việt Nam, nam giới được xem là trụ cột của gia đình và xã hội, còn nữ giới chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Điều này được phản ánh rõ nét trong nhiều câu tục ngữ, ca dao dân gian.
Câu tục ngữ
Ý nghĩa
“Sinh con trai như trời cho, sinh con gái như trời罪”
Sinh con trai được xem là may mắn, còn sinh con gái thì như là có tội với trời
“Một trai bằng ba gái”
Giá trị của một con trai bằng ba con gái
“Để tang cha, chồng; không để tang mẹ, vợ”
Khi người thân qua đời, người con trai phải để tang cha và chồng, còn người con gái thì không cần thiết
Những câu tục ngữ trên đã phản ánh rõ ràng sự ưu tiên và coi trọng nam giới hơn nữ giới trong gia đình và xã hội Việt Nam thời phong kiến.
Tục ngữ, ca dao thể hiện sự khinh thường, coi thường phụ nữ
Bên cạnh việc ưu tiên nam giới, nhiều câu tục ngữ, ca dao còn thể hiện sự khinh thường, coi thường phụ nữ một cách rõ ràng.
Câu tục ngữ
Ý nghĩa
“Con gái như hoa dễ úa”
Phụ nữ dễ bị hư hỏng, mất giá trị như hoa dễ tàn
“Con gái như cọng rơm”
Phụ nữ yếu đuối, không có giá trị
“Gái đẹp không đáng giá”
Vẻ đẹp bên ngoài của phụ nữ không quan trọng
Những câu tục ngữ trên đã phản ánh sự khinh thường, coi phụ nữ như những “đồ vật” yếu đuối, không có giá trị trong xã hội. Điều này thể hiện rõ quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu vào tư duy và nhận thức của người dân.
Tục ngữ, ca dao thể hiện sự bất bình đẳng giới trong gia đình
Ngoài việc thể hiện sự ưu tiên nam giới và coi thường phụ nữ, nhiều câu tục ngữ, ca dao còn phản ánh sự bất bình đẳng giới trong gia đình.
Câu tục ngữ
Ý nghĩa
“Con trai như cột nhà, con gái như cành liễu”
Con trai là trụ cột của gia đình, còn con gái chỉ là để trang trí, phụ thuộc
“Vợ chồng như cái bình, một vôi một nắp”
Vai trò của vợ và chồng trong gia đình là không ngang bằng, vợ phải phụ thuộc và phục tùng chồng
“Cha mẹ đẻ ra, chồng nuôi nấng”
Sau khi kết hôn, người phụ nữ sẽ phải phục tùng và phụ thuộc vào chồng, không còn là chủ thể của chính mình
Những câu tục ngữ này đã phản ánh sự phân công lao động và vai trò bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái trong gia đình. Người phụ nữ luôn phải ở vị trí phụ thuộc, phục tùng và không có quyền tự chủ.
Ngoài ra còn có hơn 30+ câu nói phê phán châm biếm việc trọng nam khinh nữ:
“Chỉ đàn ông mới được làm điều lớn, đàn bà chỉ đáng làm việc nhỏ nhặt.”
“Con trai là vàng, con gái là đất.”
“Một trai hơn cả một bầy gái.”
“Con gái là của người ta.”
“Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn vắng.”
“Gái có công, chồng vẫn là người hưởng.”
“Lấy chồng theo chồng, cha mẹ chỉ là người nuôi.”
“Con gái là hoa lá rơi.”
“Gái mà giỏi hơn trai, ắt sẽ bị đè đầu cưỡi cổ.”
“Trai thì làm chủ, gái chỉ là đầy tớ.”
“Chồng chúa vợ tôi.”
“Trai tài gái sắc, đừng bao giờ đổi ngược.”
“Nhà có con trai mới là nhà, nhà có con gái chỉ là cái chòi.”
“Con gái là của người ta, con trai mới là của mình.”
“Trai xứng đáng được quyền, gái chỉ có nghĩa vụ.”
“Con gái có lớn mà không có khôn.”
“Gái có công, chồng không cần biết.”
“Trai mạnh, gái yếu.”
“Con trai nối dõi, con gái chỉ biết hầu hạ.”
“Chỉ có con trai mới có thể thừa kế.”
“Con gái lớn lên chỉ để lấy chồng.”
“Trai thì lên voi, gái thì xuống chó.”
“Gái có tài cũng không bằng trai vô dụng.”
“Nhà có con gái như nhà có quả bom nổ chậm.”
“Con gái là của hồi môn.”
“Trai thì đáng tự hào, gái chỉ đáng thương hại.”
“Trai được trọng vọng, gái chỉ được làm vợ.”
“Gái thì phải giữ nhà, trai thì phải ra trận.”
“Con gái không đáng giá bằng nửa con trai.”
“Gái có tài mười cũng không bằng trai có tài một.”
Quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu vào trong văn hóa và ý thức của người Việt từ thời phong kiến. Điều này được thể hiện rõ nét trong hệ thống pháp luật, chính sách xã hội cũng như những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ dân gian.
Những câu tục ngữ nói về sự ưu tiên nam giới, coi thường phụ nữ và sự bất bình đẳng giới trong gia đình đã in sâu vào ý thức của người dân, trở thành những chuẩn mực ứng xử “tự nhiên” và “hợp lý” trong xã hội Việt Nam thời phong kiến. Điều này đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, kéo dài đến tận ngày nay.
Vì vậy, việc phê phán và loại bỏ những quan niệm lạc hậu này là cần thiết, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh hơn.



CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ PHỤ NỮ THỜI PHONG KIẾN

1. Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ trước chợ biết vào tay ai?
2. Thân em mười sáu tuổi đầu,
Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người.
Nói ra sợ chị em cười,
Năm ba chuyện thảm, chín mười chuyện cay.
3. Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
4. Ghe bầu trở lại về đông,
Làm thân con gái theo chồng nuôi con.
5. Bắc thang lên hỏi trăng già,
Phải chăng phận gái mưa sa giữa trời.
May ra gặp được giếng khơi
Vừa trong vừa mát lại nơi thanh nhàn
Chẳng may số phận gian nan,
Lầm than phải chịu phàn nàn cùng ai?
6. Thân em như lá từ bi,
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.
7. Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò.
8. Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi anh liệu chen đua với đời.
9. Sao ba đã đứng ngang đầu
Em còn ở mãi làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Phận em là gái được là bao nhiêu.
10. Lấy chồng thì phải theo chồng,
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo.
11. Thầy với mẹ thương anh,
Em phải thương theo
Giả như chiếc tàu buồm đang chạy
Thả neo cũng phải ngừng.
12. Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
Đêm nằm mơ tưởng, nghĩ ông láng giềng.
13. Phận em con gái xuân xanh
Ngày thời buôn bán, đêm canh trong nhà.
14. Có chồng chẳng được đi đâu
Có con chẳng được đứng lâu một giờ.




15. Làm thì chẳng kém đàn ông
Thế mà kém gạo, kém công, kém tiền.
16. Thân gái bến nước mười hai
Gặp nơi trong đục may ai nấy nhờ.
17. Em là con gái Phụng Thiên,
Bán rau mua bút, mua nghiên cho chồng.
Một quan là sáu trăm đồng,
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.
18. Xưa kia em cũng lượt là
Bây giờ áo rách hóa ra thân tàn.
19. Thân em như hạt mưa rào,
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày.
20. Chửa chồng nón thúng quai thao
Chồng rồi nón rách quai nào thì quai
Chửa chồng yếm thắm đeo hoa
Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành./.





 
 
 

Comments


bottom of page