Tóm tắt & Điểm nổi bật: "Ác mộng Đại khủng hoảng 1929" của John Kenneth Galbraith
- OFREZH EDITOR
- 3 ngày trước
- 24 phút đọc

Khái quát:
Bài viết tập trung vào việc phân tích nguyên nhân, diễn biến, hậu quả của cuộc Đại khủng hoảng năm 1929 tại Mỹ thông qua lăng kính của nhà kinh tế học nổi tiếng John Kenneth Galbraith, đặc biệt qua tác phẩm "The Great Crash of 1929". Tác phẩm này không chỉ là một tác phẩm kinh điển về khủng hoảng kinh tế, mà còn là một lời cảnh tỉnh về những sai lầm, sự tham lam và ảo tưởng của con người trong lĩnh vực tài chính.
Điểm nổi bật và tóm tắt theo chương:
Chương I: Viễn cảnh, hy vọng và sự lạc quan vô bờ bến
Điểm nổi bật: Bài chương này đánh giá sự lạc quan thái quá, tự mãn của chính quyền Coolidge vào thời điểm trước khi khủng hoảng. Tác giả nhấn mạnh sự tương phản giữa sự thịnh vượng bề ngoài và những mầm mống của bất ổn.
Tóm tắt:
Coolidge và chính quyền đánh giá cao sự thịnh vượng của nước Mỹ mà không nhận ra những dấu hiệu bất ổn.
Sự bùng nổ bất động sản ở Florida những năm 1920 được xem là dấu hiệu đầu tiên của bong bóng đầu cơ.
Sự gia tăng giá trị nhanh chóng trên thị trường chứng khoán phản ánh sự hưng phấn và tham vọng làm giàu nhanh chóng của người Mỹ.
Chương II: Có nên làm điều gì đó?
Điểm nổi bật: Phân tích những lựa chọn khó khăn mà chính quyền và các tổ chức tài chính phải đối mặt khi đối phó với sự bùng nổ thị trường, cũng như việc không có công cụ thích hợp để kiểm soát.
Tóm tắt:
Các quan chức chính phủ, Cục Dự trữ Liên bang (FED) đối mặt với câu hỏi khó về cách ứng phó với tình hình.
Thiếu công cụ hiệu quả để kiểm soát bong bóng, nhất là trong bối cảnh hệ thống còn nhiều điểm yếu.
Chương III: Chúng ta tin tưởng vào Goldman, Sachs
Điểm nổi bật: Thảo luận về sự xuất hiện và vai trò của các công ty đầu tư (ví dụ: Quỹ tín thác đầu tư Goldman, Sachs) trong việc khuếch trương sự đầu cơ và tạo ra sự khan hiếm cổ phiếu.
Tóm tắt:
Sự phát hành cổ phiếu ồ ạt, bao gồm cả sự xuất hiện của các công ty đầu tư (tín thác đầu tư).
Các công ty này tận dụng đầu cơ vay nợ, khuếch đại rủi ro và lợi nhuận.
Chương IV: Ảo mộng phôi phai
Điểm nổi bật: Mô tả sự tăng trưởng chóng mặt của thị trường chứng khoán trong mùa hè năm 1929 và những dấu hiệu cảnh báo về sự sụp đổ sắp xảy ra.
Tóm tắt:
Sự tăng trưởng ngoạn mục của thị trường chứng khoán trong mùa hè, nhưng các yếu tố bất ổn cũng bắt đầu xuất hiện.
Sự cảnh báo trước của những chuyên gia tài chính như Roger Babson không được công chúng chú ý.
Chương V: Sụp đổ
Điểm nổi bật: Tái hiện lại diễn biến của "Ngày thứ Ba đen tối" (29/10/1929), ngày thị trường chứng khoán sụp đổ.
Tóm tắt:
Mô tả những ngày đầu của thời điểm sụp đổ trên thị trường chứng khoán.
Sự tham gia điều tiết của các nhà lãnh đạo tài chính, nhưng không thể ngăn chặn được sự suy thoái.
Chương VI: Tình hình trở nên nghiêm trọng hơn
Điểm nổi bật: Tiếp tục phân tích những diễn biến sau khi thị trường sụp đổ, bao gồm nỗ lực của các quan chức, các ngân hàng.
Tóm tắt:
Diễn biến của các đợt bán tháo, gây ra sự hoảng loạn lan rộng.
Các nỗ lực "hỗ trợ có tổ chức" thất bại, phơi bày những điểm yếu của hệ thống.
Chương VII: Hậu quả 1
Điểm nổi bật: Tập trung vào các hậu quả xã hội của cuộc khủng hoảng, bao gồm tự tử và các hành vi phạm pháp.
Tóm tắt:
Tác động của khủng hoảng lên tỷ lệ tự tử và hành vi phạm pháp trong xã hội.
Sự thay đổi về lòng tin của người dân.
Chương VIII: Hậu quả 2
Điểm nổi bật: Tiếp tục phân tích tác động của khủng hoảng đến các nhân vật và tổ chức tài chính.
Tóm tắt:
Những người được cho là chịu trách nhiệm phải gánh chịu những hậu quả nặng nề (ví dụ: Chase, National City)
Sự phơi bày những điểm yếu của hệ thống.
Chương IX: Nguyên nhân và Hậu quả
Điểm nổi bật: Tổng kết các nguyên nhân chính của Đại khủng hoảng và rút ra những bài học cho tương lai.
Tóm tắt:
Đánh giá lại các nguyên nhân gây ra khủng hoảng và thảo luận về những yếu tố chính yếu như: phân phối thu nhập bất công bằng, cấu trúc tập đoàn và ngân hàng yếu kém, sự thiếu minh bạch, và thông tin kinh tế nghèo nàn.
Đề xuất những biện pháp tăng cường trong tương lai có thể tránh được thảm họa.
Ngày 24 tháng 10 năm 1929, Phố Wall rối loạn. Gần 13 triệu cổ phiếu ‒ nhiều gấp ba lần số lượng giao dịch thông thường ‒ bị các nhà đầu tư hoảng loạn bán tháo trên thị trường chứng khoán New York. Ngày này đi vào lịch sử như ngày thứ Năm đen tối (Black Thursday) mở đầu cho cuộc Đại khủng hoảng (Great Crash) của thị trường chứng khoán Mỹ và cuộc Đại suy thoái (Great Depression) kéo dài từ năm 1929 tới năm 1933. Chỉ số Dow Jones sụt giảm từ mức cao kỷ lục 381,2 ngày 3 tháng 9 năm 1929 xuống còn 230,1 ngày 29 tháng 10 năm 1929 và đạt điểm đáy ngày 6 8 tháng 7 năm 1932 khi đóng cửa ở mức 41,2 − giảm gần 90% so với mức đỉnh nó từng đạt được ba năm trước. Cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính kéo theo suy thoái kinh tế trầm trọng trên phạm vi toàn cầu. Riêng tại Mỹ, sản xuất công nghiệp giảm 45%, GDP giảm 30%, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25% và 60% người Mỹ sống dưới ngưỡng nghèo khổ. Gần 80 năm sau cuộc Đại khủng hoảng xảy ra, thế giới lại đang phải chứng kiến sự quay trở lại của tình trạng suy thoái và khủng hoảng toàn cầu. Không khó khăn trong việc nhận ra những điểm tương đồng giữa hai cuộc khủng hoảng toàn cầu này: chúng đều bắt đầu từ những đổ vỡ trong hệ thống tài chính, là hậu quả của tình trạng đầu cơ tài chính − địa ốc trong cơn lốc xoáy của tham vọng làm giàu dễ dàng. Như triết gia George Santayana(1) đã nói: “Quá khứ nếu không nhớ thì không biết đường nào dẫn đến tương lai!” Trong khi cơn bão khủng hoảng và suy thoái, thất nghiệp và bất ổn đang lan ra khắp thế giới, có lẽ đây chính là lúc thích hợp nhất để đọc lại lịch sử cuộc đại suy thoái toàn cầu đầu tiên trên thế giới, để học được từ những kinh nghiệm quá khứ, và để thấy rằng con người ở mọi thời thật giống nhau, với những sai lầm dại dột không mấy khác biệt. Tác phẩm Ác mộng Đại khủng hoảng 1929 của John Kenneth Galbraith có thể là một kiệt tác viết về Đại khủng hoảng, và hơn thế, về những sai lầm, ngớ ngẩn của con người trong tham vọng kiếm tiền nhanh chóng. John Kenneth Galbraith (1908-2006) là một trong những nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nước Mỹ. Ông là người theo trường phái Keynes nhiệt thành, ủng hộ sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, từng làm việc trên nhiều cương vị khác nhau trong chính quyền của bốn đời tổng thống Mỹ thuộc Đảng Dân chủ: Roosevelt, Truman, Kennedy và Johnson. Bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Kinh tế Nông nghiệp tại Đại học Berkeley ở California, ông 4 dạy tại Đại học Harvard trong nhiều năm và từng làm Chủ tịch Hiệp hội kinh tế Hoa Kỳ. Trong cuộc đời gần 100 năm của mình, ông viết gần 50 cuốn sách và hơn 1.000 bài báo về nhiều chủ đề nhưng chủ yếu là kinh tế. Nhiều cuốn sách của ông bán rất chạy, và có ảnh hưởng sâu sắc tới tư duy kinh tế của một tầng lớp trí thức Mỹ trong nhiều thập kỷ, nhất là trong giai đoạn 1950-1970. Có thể nói Galbraith là nhà kinh tế được công chúng biết đến nhiều nhất tại Mỹ trong giai đoạn hậu chiến tranh cho tới khi trường phái Keynes thoái trào và trường phái tiền tệ − với đại biểu xuất sắc là Milton Friedman − lên ngôi. Ác mộng Đại khủng hoảng 1929 (The Great Crash of 1929) là cuốn sách đầu tiên thật sự đưa tên tuổi của Galbraith đến với công chúng Mỹ và cho tới nay, vẫn được coi là cuốn sách cần phải đọc đầu tiên nếu muốn tìm hiểu về nguyên nhân sụp đổ tài chính năm 1929 tại Mỹ. Trong cuốn sách này, Galbraith đã chỉ ra con đường dẫn tới đại khủng hoảng ở Mỹ. Bắt đầu từ việc đầu cơ bất động sản ở Florida những năm 1920, nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng bong bóng với việc các nhà đầu tư mua bất động sản với giá trời ơi để đầu cơ sinh lời, hy vọng rằng giá cả thị trường tiếp tục tăng. Các ngân hàng hà hơi tiếp sức cho những hành động đầu cơ bằng việc cho vay dễ dàng. Thị trường chứng khoán ngày càng phồng lên, cho tới khi “vỡ tung” vào cuối năm 1929, đưa kinh tế Mỹ vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử. Đọc Galbraith, dường như chúng ta bắt gặp lại những hiện tượng mới xảy ra ở Thái Lan năm 1998, ở Mỹ, Iceland hay ở Việt Nam thời gian gần đây. Ác mộng Đại khủng hoảng 1929 được viết bằng ngòi bút hết sức sắc sảo và trôi chảy, đượm chất hóm hỉnh trong những quan sát của Galbraith về hành vi con người trong khi xảy ra bong bóng đầu cơ và cuộc đổ vỡ thị trường con người. Để nói về cuốn sách, có lẽ hợp lý hơn khi dùng chính lời của Galbraith kể về việc viết nó: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy vui sướng khi viết một cuốn sách như khi viết cuốn sách này. Đây thật sự là cuốn sách duy nhất đọng lại trong tôi không phải là sự nhọc công lao động mà là niềm sung sướng.” Cuối cùng, để kết thúc, xin mượn lại lời của John Kenneth Galbraith trong cuốn sách như một lời cảnh tỉnh cho thói tự tin thái quá (và cả tin) của con người: “Một bài học quý của năm đó cho đến giờ đã trở nên rõ ràng: Tai họa cá nhân và cụ thể sẽ xảy đến với những ai muốn tin rằng họ nhìn thấy tương lai.” Chú thích (1) George Santayana (1863 - 1952), nhà triết học duy tâm, nhà văn Mỹ, một trong những đại diện quan trọng của chủ nghĩa hiện thực tại phán ND.
Quan điểm của những năm 1990 Ác mộng đại khủng hoảng 1929 được xuất bản lần đầu năm 1955 và cho đến nay liên tục được tái bản. Điều làm nên sự thành công này chính là sự bền bỉ của cuốn sách. Mỗi lần cuốn sách chuẩn bị rời nhà in để đến các hiệu sách, thì một đợt đầu cơ, một bong bóng hay một rủi ro nào đó lại khơi dậy sự quan tâm của công chúng đến lịch sử của những hiện tượng này: câu chuyện bùng nổ và suy thoái của thời hiện đại, nguyên nhân dẫn đến những cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử. Một trong những đợt khủng hoảng như thế đã xảy ra ngay khi cuốn sách vừa rời khỏi nhà in. Mùa xuân năm 1955, thị trường chứng khoán chứng kiến một đợt bùng nổ nhỏ. Và, tôi được mời đến Washington làm chứng về những cuộc khủng hoảng trước đây trong cuộc điều trần của Thượng nghị viện. Tuy nhiên, khi tôi đang làm nhiệm vụ của mình, thị trường chứng khoán đột ngột trượt giá. Rất nhiều người, đặc biệt là những nhân vật lão làng đã đổ lỗi cho tôi về sự sụp đổ này. Thư đe dọa tới tấp gửi về, thậm chí một kẻ cuồng tín còn nói sẽ cầu cho tôi ốm đau bệnh tật mà chết sớm. Vài ngày sau khi ra làm chứng, tôi đi trượt tuyết ở Vermont và bị gãy chân. Các báo đều nhắc tới sự kiện này. Vô số thư lại được gửi tới nói rằng lời cầu nguyện đã linh nghiệm. Ít nhất, tôi đã đóng góp một điều gì đó cho tôn giáo. Trong không khí của thời đại, thậm chí một thượng nghị sĩ của Indiana tên là Homer E. Capehart còn tuyên bố, vụ việc này có bàn tay của một đảng viên cộng sản bí mật. Đó mới chỉ là sự bắt đầu. Sự điên rồ của các quỹ huy động vốn từ nước ngoài những năm 1970, cú sụt giảm lớn của thị trường vào năm 1987, những cuộc khủng hoảng ít bi kịch hơn, tất cả đều hướng sự chú ý của mọi người về năm 1929 khiến cuốn sách được tái bản liên tục. Và năm 1997 này là một lần nữa. Khi tôi đang viết những dòng này, chúng ta đang trải qua một thời kỳ mà nạn đầu cơ dấy lên mạnh mẽ. Bất cứ ai không lạc quan đến mức ngây ngô đều dễ dàng nhận ra điều này. Hiện giờ, dòng tiền chảy vào thị trường chứng khoán đã vượt quá khả năng quản lý nó. Số lượng quỹ tương hỗ đã cao hơn rất nhiều so với số người có đủ kiến thức tài chính và lịch sử để kiểm soát chúng. Tôi không dự đoán bởi dự đoán luôn bị lãng quên, chỉ có sai lầm là được nhớ rõ. Nhưng ở đây có một quá trình cơ bản đang tái diễn. Nó xảy ra khi giá cả, dù là giá chứng khoán, giá địa ốc, giá một tác phẩm nghệ thuật hay bất kỳ một loại hàng hóa nào khác, tăng cao. Giá tăng thu hút sự chú ý của người mua, gây ra những tác động sâu hơn. Kỳ vọng vì thế được biện minh bởi hành động đẩy giá lên. Quá trình này tiếp diễn, sự lạc quan tin tưởng vào tác động của nó đối với 6 thị trường trở thành các lệnh giao dịch trong ngày. Giá cả, vì thế, ngày một leo thang. Sau đó, vì những lý do mà người ta sẽ không ngừng tranh cãi, cái kết ập đến. Quá trình trượt dốc lúc nào cũng đột ngột hơn quá trình tăng giá, giống như một quả bóng bị châm kim, nó sẽ xẹp xuống rất nhanh. Xin được nhắc lại, tôi không dự đoán, tôi chỉ quan sát thấy hiện tượng này đã lặp lại rất nhiều lần kể từ năm 1637, khi các nhà đầu cơ Hà Lan coi củ hoa tulíp là con đường thần tiên dẫn tới thịnh vượng(1); năm 1720, khi John Law(2) mang sự giàu sang giả hiệu và sau đó là nghèo đói đột ngột tới Paris bằng các cuộc tìm kiếm vàng (thứ vàng mà cho tới tận ngày nay người ta vẫn không thể phát hiện ra ở Louisiana). Trong những năm này, khủng hoảng Bong bóng biển Nam (South Sea Bubble)(3) cũng phá hủy nền tài chính Anh quốc. Càng về sau, tần suất lặp lại các sự kiện này càng lớn! Trong suốt thế kỷ XIX, cứ 20 hoặc 30 năm, nước Mỹ lại chứng kiến một đợt đầu cơ. Điều này đã trở thành truyền thống, bởi các thuộc địa, cả Nam và Bắc, đều đã phải trả giá đắt cho những chính sách tài chính không mang lại sự hỗ trợ hữu hình nào. Họ đã làm rất tốt cho tới khi nhận ra chẳng có gì tốt đẹp xảy ra. Cuộc cách mạng phải trả giá bằng sự trượt giá của tiền Lục địa (Continental notes)(4), khiến câu nói “không đáng một đồng tiền Lục địa” trở thành bất hủ. Trong những năm sau cuộc chiến tranh 18121814, một đợt bùng nổ địa ốc lớn đã diễn ra. Năm 1830, nạn đầu cơ hoành hành trong các dự án đầu tư kênh rạch và xa lộ, hay còn được gọi là các dự án nâng cấp các công trình công cộng. Cùng với nó, tiền ngân hàng không được bất cứ thứ gì có giá trị bảo đảm và gần như bất kỳ ai cũng có khả năng phát hành. Đến năm 1837, tình trạng này mới kết thúc. Vào những năm 1850, một đợt bùng nổ và suy thoái nữa lại xảy đến, và trong những năm đó, một ngân hàng ở New England – vùng đất có tiếng là thận trọng bậc nhất nước Mỹ – đã phá sản. Lượng tiền giấy lưu hành của ngân hàng này trị giá 500.000 đôla nhưng tài sản để bảo đảm cho nó chỉ có giá trị vẻn vẹn 86,48 đôla. Sau Nội chiến là đến thời kỳ ngành đường sắt ở Mỹ phát triển mạnh mẽ và cuộc khủng hoảng đặc biệt nghiêm trọng vào năm 1873. Một thời kỳ bùng nổ nữa cũng kết thúc đầy kịch tính như thế vào năm 1907, nhưng các ngân hàng lớn của New York lần này đã phần nào hạn chế được thiệt hại. Trước đó, một số lượng quỹ đáng kể của Anh đã thâm nhập vào thị trường Mỹ, tiếp sức cho nạn đầu cơ ở nước này, nhưng đáng chú ý là nó chỉ xảy ra trong ngành đường sắt. Các quỹ của Anh cũng đầu tư xuống cả vùng Nam Mỹ và Bong bóng South Sea lúc này đã hoàn toàn chìm vào quên lãng. Ngân hàng tiếng tăm Baring Brothers khi đó phải nhờ đến Ngân hàng Anh quốc mới thoát khỏi nguy cơ phá sản do các khoản vay của Argentina. Đây là một chi tiết đến nay vẫn còn thú vị, 7 bởi vào những năm 1990, một chi nhánh nhỏ của Barings ở Singapore có dính líu tới một vụ lũng đoạn thị trường lớn. Lần này, không có sự giải thoát nào hết, vì lợi ích chung cho cộng đồng, Barings đã biến mất. Nếu quả thật nền kinh tế hiện đang xuống dốc – hay ngày đền tội sắp đến, thì chúng ta có thể nhìn thấy trước một số điều. Theo ước tính, có khoảng 1/4 dân số Mỹ, trực tiếp hoặc gián tiếp, chơi chứng khoán. Nếu khủng hoảng kinh tế diễn ra, người dân sẽ phải hạn chế tiêu dùng, đặc biệt là đối với những hàng hóa lâu bền, do đó, gây sức ép đối với các khoản nợ lớn trên thẻ tín dụng của họ. Kết quả sẽ là những tác động tiêu cực lên nền kinh tế. Có thể nó sẽ không ghê gớm như hậu quả của cuộc Đại khủng hoảng năm 1929; khi đó, các ngân hàng rất yếu và không có bảo hiểm ký gửi; thị trường cho hàng hóa nông phẩm là thị trường quan trọng, nhưng lại đặc biệt dễ bị tổn thương; các hiệu ứng hỗ trợ từ quỹ hỗ trợ thất nghiệp, trợ cấp phúc lợi và an sinh xã hội không tồn tại. Ngày nay, mọi thứ đều đã tốt đẹp hơn. Nhưng suy thoái vẫn có thể xảy ra, đó là điều bình thường. Chắc chắn, sẽ có những lời trấn an thường thấy từ Washington. Bất cứ khi nào thị trường lâm nguy, những lời này sẽ được nhắc đi nhắc lại: “Tình hình kinh tế về cơ bản là ổn định” hoặc đơn giản là “Các yếu tố kinh tế cơ bản vẫn bền vững”. Nếu những lời này lại được nói ra, chúng ta nên hiểu là tai họa đang đến. Một lần nữa, tôi nhắc lại, tôi không dự đoán mà chỉ dựng lại câu chuyện quá khứ. Tôi xin đưa ra lời cuối cùng cho cuốn sách này. Cuốn sách được xuất bản từ mùa xuân năm 1955 cho những độc giả ”kén sách”, biết thưởng thức. Nó được vinh danh trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất, và tôi thật sự hài lòng khi nhìn vào cửa kính các hiệu sách. Tuy nhiên, trong những chuyến bay thường xuyên tới New York, tôi rất buồn khi không thấy bóng dáng cuốn sách của mình trong hiệu sách nhỏ ở sân bay La Guardia. Một buổi tối, tôi quyết định dừng lại và ngó nghiêng các giá sách. Cuối cùng, cô nhân viên quầy sách cũng để ý tới tôi và hỏi tôi đang tìm cuốn sách gì. Hơi xấu hổ, tôi nói tên tác giả và cho biết thêm đó là cuốn sách có tên The Great Crash. “Đó không phải thứ sách có thể bán tại sân bay”, cô nhân viên trả lời chắc nịch(5). Chú thích (1)Khủng hoảng Hoa tulíp diễn ra trong những năm 1634-1637 ở Hà Lan. Đặc trưng mới lạ của loài hoa này làm rất nhiều người tìm kiếm để mua, do đó giá cũng đắt dần lên và hình thành hiện tượng đầu cơ (khi đến đỉnh điểm, một củ hoa tulíp có thể đổi được một căn nhà). Nhưng khi bong bóng đầu cơ vỡ, giá sụt thê thảm và rất nhiều người bị phá sản. (2)John Law (1671-1729): bị coi là tội đồ tài năng của nước Pháp. Ông là một lý thuyết gia về tài chính tiền tệ, một trong những tác giả đầu tiên của đồng tiền giấy, và đồng thời là một nhà đầu cơ quy mô và liều lĩnh hiếm thấy. 8 Ông không chỉ là người sáng lập ra ngân hàng tư nhân đầu tiên có quyền phát hành ra tiền giấy mà còn sáng lập ra Công ty Occident, một công ty thương mại có quyền quản lý và khai thác tài nguyên của vùng hạ lưu sông Mississipi (bang Louisiana ngày nay của Mỹ). Law đã thuyết phục người dân Pháp tin rằng ở vùng đất này có rất nhiều vàng và phát minh ra cái gọi là “cổ phiếu nhân dân” để huy động vốn cho việc khai thác vàng ở Louisiana - ND. (3)Cuộc khủng hoảng bong bóng biển Nam mang tên Công ty biển Nam (South Sea Company) của Anh xảy ra năm 1720 khi giá cổ phiếu công ty này giảm từ đỉnh với giả giao dịch 1.000 Bảng Anh (một mức giá rất cao vào hồi đó) xuống mức vô giá trị do nạn đầu cơ. Đây là một trong những vụ tồi tệ nhất lịch sử kinh tế nước Anh ND. (4) Tiền Lục địa (Continental notes hoặc Continental Currency) là loại tiền giấy được phát hành bởi Quốc hội Lục địa (Continental Congress), sau cuộc Cách mạng Mỹ (1775 – 1783). Loại tiền này được gọi theo tên của đồng đôla, có mệnh giá từ 1/6 đôla đến 80 đôla. Do không nhận được sự ủng hộ và dễ bị giả mạo nên tiền Lục địa nhanh chóng mất giá – ND. (5)Trong tiếng Anh, từ “crash” không chỉ được dùng để chỉ các vụ khủng hoảng kinh tế mà còn chỉ các vụ tai nạn máy bay. Trong trường hợp này, cô nhân viên quầy sách đã lầm tưởng cuốn sách The Great Crash nói về một vụ tai nạn máy bay thảm khốc. Vì vậy cô mới nói, ở sân bay không bán loại sách đó - ND. 9 CHƯƠNG I Ebook miễn phí tại : https://cophieux.com/ “Viễn cảnh, hy vọng và sự lạc quan vô bờ bến” Ngày 4 tháng 12 năm 1928, Tổng thống Mỹ Coolidge(7) triệu tập Quốc hội để đưa ra tuyên bố cuối cùng về tình hình đất nước. Ngay cả những thành viên quốc hội bi quan nhất hẳn cũng thấy vững tin trước những lời có cánh của ông. “Chưa từng có cuộc họp quốc hội nào bàn về tình hình đất nước lại diễn ra với viễn cảnh tươi sáng như thời điểm hiện nay. Trong nước, người dân sống yên ổn và hạnh phúc… Đây thật sự là đỉnh cao của những năm tháng thịnh vượng. Bên ngoài nước Mỹ, thế giới sống trong hòa bình và thiện chí nhờ hiểu biết lẫn nhau…” Coolidge khẳng định với các nhà lập pháp rằng họ và nước Mỹ có thể “bằng lòng với hiện tại và lạc quan hướng tới tương lai”. Và trái với thông lệ chính trị từ bao đời nay, ông không nhận công về chính phủ của mình: “Nguồn cội của những phước lành vô tiền khoáng hậu này chính là sự chính trực và tính cách của người Mỹ.” Tất cả các thế hệ sử gia luôn chỉ trích sự lạc quan tới mức thiển cận của Coolidge bởi nó khiến ông không nhìn thấy được cơn bão lớn đang hình thành trong nước và xa hơn nữa là từ bên ngoài. Nhận định đó hết sức bất công. Để tiên đoán tai họa, người ta không cần đến sự dũng cảm hay tài tiên tri. Để tuyên bố mọi chuyện tốt đẹp mới cần đến sự can đảm. Các nhà sử học hoan hỉ buộc tội nhà tiên tri sai lầm của thiên niên kỷ, nhưng họ chẳng bao giờ đào sâu vào lỗi lầm của người tiên đoán sai ngày tận thế. Coolidge quả thật đã vẽ ra một thế giới màu hồng. Đúng như giới cực đoan theo trường phái tự do khăng khăng cho rằng cái giàu đến với người giàu nhanh hơn cái nghèo rũ bỏ người nghèo. Người nông dân vẫn bất bình từ đợt suy thoái 1920-1921 bởi giá lương thực bị cắt giảm đột ngột nhưng chi phí sản xuất vẫn cao. Người da màu ở miền Nam và người da trắng ở phía Nam dãy núi Appalachian tiếp tục chìm trong cảnh đói nghèo cùng cực. Những ngôi nhà lộng lẫy kiểu Anh cổ với những cột nhà cao, tường bọc chì và khung tường gỗ đúng kiểu mọc lên khắp nơi trên địa phận của các câu lạc bộ thể thao ngoài trời, trong khi đó, đi sâu vào trung tâm, ngay bên ngoài tòa nhà Orient, đập vào mắt người ta lại là những khu nhà ổ chuột lụp xụp, rách nát. Tuy thế, những năm 1920 tại Mỹ lại quả là thời hoàng kim. Tình hình sản xuất và tỷ lệ người lao động có việc làm đạt mức cao và không ngừng tăng. Lương tuy không tăng mạnh nhưng giá cả vẫn giữ ở mức ổn định. Tuy vẫn còn người nghèo nhưng cuộc sống của rất nhiều người đã đầy đủ, sung túc hơn 10 trước. Không còn nghi ngờ gì nữa, chủ nghĩa tư bản Mỹ đang ở thời kỳ khởi sắc. Từ năm 1925 đến năm 1929, số lượng các nhà máy sản xuất đã tăng từ 183.900 lên 206.700, giá trị tổng sản phẩm chúng tạo ra tăng từ 60,8 tỷ đôla lên 68 tỷ đôla. Chỉ số sản xuất công nghiệp của Cục Dự trữ Liên bang – từng đạt mức trung bình là 67 vào năm 1921 – đã tăng lên tới 110 vào tháng 7 năm 1928 và đạt 126 vào tháng 6 năm 1929. Năm 1926 có 4.301.000 chiếc ô tô xuất xưởng. Ba năm sau, năm 1929, sản lượng ô tô đã tăng thêm hơn 1 triệu, lên tới 5.358.000 chiếc – một con số có thể sánh ngang với 5.700.000 đăng ký mới của năm 1953 thịnh vượng. Lợi nhuận tăng nhanh chóng và hứa hẹn thời điểm vàng để bước chân vào kinh doanh. Quả thực, ngay cả những sự kiện lớn nhất của thời đại lịch sử này cũng phải ngầm công nhận đây là thời kỳ hoàng kim, bởi tất cả gần như đều cùng lúc hùa vào, bắt Coolidge phải trả giá khi không nhận ra chân lý: thứ gì quá tốt đẹp sẽ không thể bền lâu. Ý niệm về luật bù trừ, rằng 10 năm hoàng kim của những năm 1920 sẽ phải trả giá bằng 10 năm đen tối trong những năm 1930, là ý niệm đáng lưu ý và sẽ được tìm hiểu kỹ hơn. II Có một điều của những năm 1920 mà lẽ ra Coolidge nên nhận thấy. Nó liên quan đến tính cách của những người dân Mỹ mà ông đã dành tặng những lời tốt đẹp. Cùng với những chân giá trị mà ông ngợi khen, họ còn thể hiện một khao khát hơi quá quắt, đó là mong muốn làm giàu thật nhanh nhưng lại tốn ít công sức nhất. Tính cách này bộc lộ lần đầu tiên ở Florida. Tại đó, vào giữa những năm 1920, các hạt Miami, Miami Beach, Coral Gables, East Coast ở phía Bắc cũng như Palm Beach và các thành phố quanh vùng vịnh đã chứng kiến thời kỳ bùng nổ địa ốc mạnh mẽ. Sự bùng nổ của Florida mang đầy đủ tất cả các yếu tố của một bong bóng đầu cơ điển hình. Có một yếu tố cốt yếu không thể bỏ qua: Florida có điều kiện khí hậu thuận lợi hơn New York, Chicago hay Minneapolis. Thu nhập cao hơn và điều kiện giao thông vận tải tốt hơn khiến Florida trở thành cửa ngõ thuận tiện thoát khỏi miền Bắc băng tuyết. Thời kỳ hoàng kim thật sự đến khi các chuyến bay hàng năm tới miền Nam có mật độ dày đặc và thường xuyên đến độ khiến người ta liên tưởng đến những đợt di cư của loài ngỗng Canada. Một yếu tố không thể thiếu khác đó là người ta đã xây dựng một thế giới của những niềm tin tự biện ‒ thế giới của những người cần được thuyết phục để tin tưởng, mà là thế giới của những người không cần một cái cớ để tin. Trong trường hợp của Florida, họ muốn tin rằng cả bán đảo sẽ nhanh chóng trở thành chốn dừng chân của những người yêu du lịch, mê tắm nắng của một thời đại mới và nhàn tản. Và cơn sốt này sẽ lớn đến độ các bãi biển, đầm lầy, và cả những vùng đất đầy bụi rậm đều trở nên có giá. Khí hậu Florida rõ ràng 11 không đảm bảo điều này chắc chắn sẽ xảy ra nhưng nó tạo cho những người muốn tin vào viễn cảnh này cái cớ để tin tưởng. Tuy nhiên, hoạt động đầu cơ không chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng ru ngủ bản thân. Ở Florida, đất được chia thành các lô xây dựng và chỉ cần trả trước 10% tiền mặt là mua được. Một thực tế là hầu hết những lô đất được sang nhượng xấu đến mức gây phản cảm trong mắt người mua cũng như những người qua đường, song người mua không có ý định sống trên lô đất đó. Nhưng đây chỉ là những phân tích lý thuyết. Trên thực tế, những lô đất xấu xí này lại đang lên giá hàng ngày và có thể đem lại món hời lớn chỉ trong vòng nửa tháng. Đây cũng là một trong những đặc điểm của tâm lý đầu cơ mà theo thời gian, xu hướng mua đất vì các lý do phi lợi nhuận ngày càng yếu đi và bị thay thế bởi thực tế đơn giản là giá trị đất ngày càng tăng. Quả thật, người ta có lý do để bị cuốn vào cơn lốc này bởi khi càng nhiều người mua vào với hy vọng bán ra ở giá cao, giá càng được đẩy lên nhanh. Trong suốt năm 1925, cơn sốt làm giàu thật nhanh đã thu hút ngày càng nhiều người đổ xô đến Florida. Mỗi tuần, lại có thêm nhiều đất đai bị chia nhỏ thành lô để bán. Những gì vốn được gọi là bờ biển giờ đã cách xa biển đến 5, 10, rồi 15 dặm. Các vùng ngoại ô bị đẩy ra xa hẳn khỏi trung tâm thành thị. Khi nạn đầu cơ tràn lên phía Bắc, một doanh nhân người Boston là Charles Ponzi đã khai hoang một vùng đất “gần Jacksonville”, cách thành phố này khoảng 65 dặm về phía Tây. Trong khi đó, lại có những trường hợp phân khu nằm quá gần trung tâm, chẳng hạn như khu Manhattan, cách thành phố Nettie trù phú và phát triển chóng mặt chưa đến 3/4 dặm, thì cả Manhattan và Nettie đều bị đô thị hóa nhanh chóng và phân lô. Mật độ giao thông dày đặc đến độ vào mùa thu năm 1925, các công ty đường sắt buộc phải tuyên bố cấm chuyên chở các hàng hóa ít quan trọng như nguyên vật liệu xây dựng để phát triển các phân khu. Giá đất tăng chóng mặt. Trong vòng bán kính 40 dặm tính từ Miami, các lô đất “nằm trong” được bán với giá từ 8.000 tới 20.000 đôla; các lô gần biển có giá từ 15.000 tới 25.000 đôla, và khu vực bờ biển dù gần hay xa đều có giá khoảng 20.000 đến 75.000 đôla. Tuy nhiên, mùa xuân năm 1926, lượng người mua – yếu tố quan trọng đẩy giá tăng – bắt đầu giảm. Nhưng theo diễn biến trong năm 1928 và 1929, cái đà do sự bùng nổ đem lại không thể dừng trong chốc lát. Có một thời gian trong năm 1926, tài thuyết phục của các nhân viên môi giới địa ốc đã kéo lại lượng khách hàng triển vọng đang giảm dần. (Ngay cả giọng nói sấm sét từng làm rung chuyển cây Thánh giá vàng của William Jennings Bryan(8), cũng đã có thời được dùng vào công việc bán đất đầm lầy.) Nhưng cơn sốt bất động sản ở Florida không chỉ quỵ ngã do chính sức nặng của nó. Mùa thu năm 1926, hai cơn bão lớn ập đến, và theo cách nói của Frederick Lewis Allen, chúng đã cho 12 thấy “những gì mà cơn gió nhiệt đới êm đềm có thể gây ra khi cuộn đến từ phía Đại Tây Dương”. Những trận bão gió khủng khiếp nhất vào ngày 18 tháng 9 năm 1926 đã cướp đi sinh mạng của 400 người, xé tung hàng ngàn mái nhà và cuốn hàng tấn nước cũng như một lượng lớn thuyền buồm lên đường phố Miami. Tuy nhiên, người ta đồng tình rằng cơn bão đã giúp người dân thức tỉnh, nhận ra đoạn kết của thời kỳ bùng nổ đang đến gần, mặc dù số đông vẫn dự đoán điều ngược lại. Trên tờ Wall Street Journal, số ra ngày 8 tháng 10 năm 1926, Peter O. Knight, một quan chức của công ty đường sắt Seaboard Air Line và là người tin tưởng vững chắc vào tương lai của Florida, thừa nhận, có 17 đến 18 ngàn người đang cần cứu trợ. Nhưng ông này cũng nói thêm: “Một Florida như thế vẫn còn đây với nguồn tài nguyên phong phú, khí hậu tuyệt vời và vị trí địa lý thuận lợi. Florida chính là Riviera(9) của nước Mỹ.” Knight thậm chí còn lo ngại rằng việc kêu gọi cứu trợ bão của Quỹ Chữ thập Đỏ sẽ “gây cho Florida những thiệt hại vĩnh viễn, còn lớn hơn cả lượng tiền mà quỹ này gây dựng được”. Thái độ miễn cưỡng không muốn thừa nhận sự thật này rất phù hợp với môtíp cũ. Sự bùng nổ của Florida đã đi đến hồi kết. Năm 1925, các ngân hàng ở Miami nắm giữ 1.066.528.000 đôla; tới năm 1928, con số này tụt xuống còn 143.364.000 đôla. Những người nông dân từng bán đất với giá hời và sau đó ngậm ngùi tiếc nuối khi nó được bán lại với giá gấp đôi, gấp ba và gấp bốn giá trị ban đầu, giờ đôi khi lại mua được trúng những mảnh đất cũ khi một loạt các nhà đầu tư địa ốc tuyên bố vỡ nợ. Đôi lúc, các con đường mang cái tên mỹ miều được tạo ra trong những mảnh đất này cùng với vỉa hè, cột đèn, nên thuế và định giá giá của chúng bị đội lên vài lần so với giá trị thực. Cơn sốt đất ở Florida là biểu hiện đầu tiên của tâm lý Mỹ những năm 1920 và niềm tin vững chắc rằng Chúa muốn tầng lớp trung lưu Mỹ được giàu có. Nhưng đáng chú ý là tâm lý này vẫn đứng vững trước hiện tượng bong bóng vỡ ở Florida. Ai cũng hiểu là mọi thứ ở Florida đã lụi tàn. Mặc dù số người đầu cơ khi đó ít hơn nhiều so với số người chơi chứng khoán sau này, nhưng gần như trong bất kỳ nhóm nào ở Florida cũng có ít nhất một người “thua lỗ khá nặng”. Trong suốt một thế kỷ sau khi Bong bóng South Sea vỡ tan, người Anh vẫn nhìn những công ty chứng khoán có uy tín nhất với con mắt ngờ vực. Ấy vậy mà ngay cả khi cơn sốt tại Florida đã thoái trào, niềm tin của người Mỹ vào cách làm giàu nhanh chóng và dễ dàng nhờ thị trường chứng khoán lại trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. III Khó có thể xác định rõ sự bùng nổ của thị trường chứng khoán thế kỷ XIX bắt đầu từ khi nào. Có nhiều lý do thỏa đáng giải thích tại sao trong những 13 năm đó, giá cổ phiếu thường lại tăng cao đến vậy. Lợi nhuận của các công ty tăng mạnh. Triển vọng có vẻ tươi sáng. Đầu những năm 1920, giá cổ phiếu còn ở mức thấp, do đó lợi nhuận về sau thu được lớn đến không ngờ. Trong sáu tháng cuối năm 1924, giá chứng khoán bắt đầu tăng, và tiếp tục tăng mạnh trong suốt năm 1925. Vì thế, đến cuối tháng 5 năm 1924, mức giá trung bình của 25 cổ phiếu công nghiệp New York Times(10) (hay còn gọi là chỉ số công nghiệp Times) là 106; tới cuối năm, chỉ số này đã lên tới 134. Cho tới ngày 31 tháng 12 năm 1925, nó tăng thêm gần 50 điểm và đạt mức 181. Sự nhảy vọt liên tục trong năm 1925 diễn ra khá ổn định. Chỉ có một vài tháng giá trị thị trường không hiện mức lãi ròng. Đến năm 1926, thị trường xuất hiện vài dấu hiệu sụt giảm.
THEO AI
Bình luận