Tóm tắt & Điểm nổi bật: "Ác mộng Đại khủng hoảng 1929" của John Kenneth Galbraith Phần 2
- OFREZH EDITOR
- 3 ngày trước
- 135 phút đọc
Khái quát:
Bài viết tập trung vào việc phân tích nguyên nhân, diễn biến, hậu quả của cuộc Đại khủng hoảng năm 1929 tại Mỹ thông qua lăng kính của nhà kinh tế học nổi tiếng John Kenneth Galbraith, đặc biệt qua tác phẩm "The Great Crash of 1929". Tác phẩm này không chỉ là một tác phẩm kinh điển về khủng hoảng kinh tế, mà còn là một lời cảnh tỉnh về những sai lầm, sự tham lam và ảo tưởng của con người trong lĩnh vực tài chính.
Điểm nổi bật và tóm tắt theo chương:
Chương I: Viễn cảnh, hy vọng và sự lạc quan vô bờ bến
Điểm nổi bật: Bài chương này đánh giá sự lạc quan thái quá, tự mãn của chính quyền Coolidge vào thời điểm trước khi khủng hoảng. Tác giả nhấn mạnh sự tương phản giữa sự thịnh vượng bề ngoài và những mầm mống của bất ổn.
Tóm tắt:
Coolidge và chính quyền đánh giá cao sự thịnh vượng của nước Mỹ mà không nhận ra những dấu hiệu bất ổn.
Sự bùng nổ bất động sản ở Florida những năm 1920 được xem là dấu hiệu đầu tiên của bong bóng đầu cơ.
Sự gia tăng giá trị nhanh chóng trên thị trường chứng khoán phản ánh sự hưng phấn và tham vọng làm giàu nhanh chóng của người Mỹ.
Chương II: Có nên làm điều gì đó?
Điểm nổi bật: Phân tích những lựa chọn khó khăn mà chính quyền và các tổ chức tài chính phải đối mặt khi đối phó với sự bùng nổ thị trường, cũng như việc không có công cụ thích hợp để kiểm soát.
Tóm tắt:
Các quan chức chính phủ, Cục Dự trữ Liên bang (FED) đối mặt với câu hỏi khó về cách ứng phó với tình hình.
Thiếu công cụ hiệu quả để kiểm soát bong bóng, nhất là trong bối cảnh hệ thống còn nhiều điểm yếu.
Chương III: Chúng ta tin tưởng vào Goldman, Sachs
Điểm nổi bật: Thảo luận về sự xuất hiện và vai trò của các công ty đầu tư (ví dụ: Quỹ tín thác đầu tư Goldman, Sachs) trong việc khuếch trương sự đầu cơ và tạo ra sự khan hiếm cổ phiếu.
Tóm tắt:
Sự phát hành cổ phiếu ồ ạt, bao gồm cả sự xuất hiện của các công ty đầu tư (tín thác đầu tư).
Các công ty này tận dụng đầu cơ vay nợ, khuếch đại rủi ro và lợi nhuận.
Chương IV: Ảo mộng phôi phai
Điểm nổi bật: Mô tả sự tăng trưởng chóng mặt của thị trường chứng khoán trong mùa hè năm 1929 và những dấu hiệu cảnh báo về sự sụp đổ sắp xảy ra.
Tóm tắt:
Sự tăng trưởng ngoạn mục của thị trường chứng khoán trong mùa hè, nhưng các yếu tố bất ổn cũng bắt đầu xuất hiện.
Sự cảnh báo trước của những chuyên gia tài chính như Roger Babson không được công chúng chú ý.
Chương V: Sụp đổ
Điểm nổi bật: Tái hiện lại diễn biến của "Ngày thứ Ba đen tối" (29/10/1929), ngày thị trường chứng khoán sụp đổ.
Tóm tắt:
Mô tả những ngày đầu của thời điểm sụp đổ trên thị trường chứng khoán.
Sự tham gia điều tiết của các nhà lãnh đạo tài chính, nhưng không thể ngăn chặn được sự suy thoái.
Chương VI: Tình hình trở nên nghiêm trọng hơn
Điểm nổi bật: Tiếp tục phân tích những diễn biến sau khi thị trường sụp đổ, bao gồm nỗ lực của các quan chức, các ngân hàng.
Tóm tắt:
Diễn biến của các đợt bán tháo, gây ra sự hoảng loạn lan rộng.
Các nỗ lực "hỗ trợ có tổ chức" thất bại, phơi bày những điểm yếu của hệ thống.
Chương VII: Hậu quả 1
Điểm nổi bật: Tập trung vào các hậu quả xã hội của cuộc khủng hoảng, bao gồm tự tử và các hành vi phạm pháp.
Tóm tắt:
Tác động của khủng hoảng lên tỷ lệ tự tử và hành vi phạm pháp trong xã hội.
Sự thay đổi về lòng tin của người dân.
Chương VIII: Hậu quả 2
Điểm nổi bật: Tiếp tục phân tích tác động của khủng hoảng đến các nhân vật và tổ chức tài chính.
Tóm tắt:
Những người được cho là chịu trách nhiệm phải gánh chịu những hậu quả nặng nề (ví dụ: Chase, National City)
Sự phơi bày những điểm yếu của hệ thống.
Chương IX: Nguyên nhân và Hậu quả
Điểm nổi bật: Tổng kết các nguyên nhân chính của Đại khủng hoảng và rút ra những bài học cho tương lai.
Tóm tắt:
Đánh giá lại các nguyên nhân gây ra khủng hoảng và thảo luận về những yếu tố chính yếu như: phân phối thu nhập bất công bằng, cấu trúc tập đoàn và ngân hàng yếu kém, sự thiếu minh bạch, và thông tin kinh tế nghèo nàn.
Đề xuất những biện pháp tăng cường trong tương lai có thể tránh được thảm họa.
Đầu năm, hoạt động kinh doanh khẽ đi xuống, nên nhiều người cho rằng doanh thu năm trước đã tăng rất vô lý. Tháng 2 chứng kiến một cú sụt lớn của thị trường và tháng 3 là sự sụp giảm đột ngột. Chỉ số công nghiệp Times giảm từ 181 hồi đầu năm xuống 172 vào tháng 2, sau đó giảm tiếp gần 30 điểm xuống còn 143 vào cuối tháng 3. Tuy vậy, vào tháng 4, thị trường lại vững vàng trở lại và tiếp tục đi lên. Một cú sụt giảm nữa xuất hiện vào tháng 10, ngay sau khi cơn bão thổi tung những dấu tích của thời kỳ bùng nổ Florida, nhưng một lần nữa thị trường lại nhanh chóng hồi phục. Đến cuối năm, giá trị đã đạt mức tương đương hồi đầu năm. Năm 1927, giá cả leo thang chóng mặt. Ngày qua ngày, tháng tiếp tháng, giá cổ phiếu liên tục tăng. Lợi nhuận thu được không nhiều nhưng chúng mang lại cho người dân rất nhiều hy vọng. Trong suốt năm 1927, chỉ có duy nhất hai tháng là chỉ số giá trung bình không tăng. Ngay cả sự kiện Lindbergh(11) từ sân bay Roosevelt Field một mình vượt Đại Tây Dương tới Paris vào ngày 20 tháng 5 cũng không được nhiều người biết đến. Ngày hôm đó, thị trường với những bước tiến tuy nhỏ nhưng vững chắc đã thu hút được một nhóm mộ đạo trung thành, không quan tâm đến bất kỳ chuyện gì khác. Mùa hè năm 1927, Henry Ford hạ màn cho mẫu ô tô bất tử Model T và đóng cửa nhà máy để chuẩn bị cho Model A. Sự kiện này dẫn đến chỉ số công nghiệp của Cục Dự trữ Liên bang bắt đầu giảm. Lúc này, người ta bắt đầu bàn nhiều hơn đến chủ đề suy thoái. Nhưng sự kiện này tác động không đáng kể đến thị trường. Tới cuối năm, khi sản lượng tăng trở lại, chỉ số công nghiệp Times lại đứng ở mức 245, tăng tổng cộng 69 điểm trong vòng một năm. Năm 1927 còn là một năm lịch sử đối với thị trường chứng khoán. Theo một học thuyết đã được công nhận từ lâu, đây chính là năm mà mầm tai họa được ươm. Mầm mống ban đầu bắt nguồn từ hành động hào phóng nhưng nhẹ dạ của mối bang giao quốc tế. Một số người, trong đó có Tổng thống 14 Hoover(12), coi hành động này gần như là sự phản phúc, mặc dù vào thời đó, người ta vẫn rất cẩn trọng khi đưa ra những lời buộc tội như thế. Trong năm 1925, được sự chỉ đạo của Bộ trưởng Tài chính đương thời là Winston Churchill, nước Anh quay trở lại bản vị vàng theo mối quan hệ giữa vàng, đôla và đồng bảng trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Rõ ràng, Churchill ấn tượng với thời hoàng kim của quá khứ khi 1 bảng Anh đổi được 4,86 đôla, hơn là hệ lụy ngầm của nguy cơ tỉ giá quá cao, điều mà người ta ngờ rằng ông này không hiểu. Hậu quả của quyết định này đã xảy ra và thậm chí tác hại còn rất nặng nề. Khách hàng mua hàng hóa của Anh giờ đây phải trả bằng đồng bảng đắt đỏ như mức lạm phát hồi chiến tranh. Vì thế, Anh trở thành điểm mua không mấy hấp dẫn đối với khách hàng nước ngoài và cũng với lý do đó, trở thành nơi hàng hóa bán vào dễ dàng. Vào năm 1925, chuỗi khủng hoảng hối đoái dài bắt đầu diễn ra, và trở thành một hình ảnh đặc trưng của Anh hệt như những con sư tử ở Quảng trường Trafalgar hay các cô gái điếm ở Piccadilly (tên các địa điểm ở thủ đô London). Quyết định này đã gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với thị trường trong nước: thị trường than ảm đạm và những nỗ lực giảm chi phí, giá cả để theo kịp cạnh tranh toàn cầu đã dẫn đến cuộc tổng đình công năm 1926. Khi đó, lượng vàng chảy máu tại Anh và châu Âu đều đổ về Mỹ. Hiện tượng này có thể được chặn đứng nếu tại Mỹ, giá hàng hóa cao và tỷ lệ lãi suất ở mức thấp. (Nước Mỹ nếu vậy sẽ là một nơi tồi để mua hàng và đầu tư.) Mùa xuân năm 1927, ba nhà hành hương đáng kính là Montagu Norman – Thống đốc ngân hàng Anh Quốc, Hjamar Schacht bền bỉ, khi đó là Thống đốc ngân hàng Reichsbank, và Charles Rist – Phó Thống đốc ngân hàng Pháp – đã đến Mỹ thuyết phục chính phủ nước này nới lỏng chính sách tiền tệ. (Trước đó, họ đã thành công với chính sách tương tự vào năm 1925.) và được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chấp thuận. Tỷ lệ tái chiết khấu của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York giảm từ 4 xuống còn 3,5%. Chứng khoán chính phủ được mua vào với khối lượng khá lớn và để lại hậu quả là bên bán gồm các ngân hàng và cá nhân thừa tiền chẳng biết làm gì. Adolph C. Miller, một thành viên bất mãn của Cục Dự trữ Liên bang, sau này đã miêu tả sự kiện này như là “hành động cả gan nhất và liều lĩnh nhất mà Cục Dự trữ Liên bang từng thực thi và… [nó] đã gây ra một trong những sai lầm đắt giá nhất mà Cục này hay bất cứ hệ thống ngân hàng nào từng gây ra trong vòng 75 năm qua!” Các quỹ do Cục Dự trữ Liên bang mở ra nếu không được đầu tư vào cổ phiếu thì cũng được dùng để hỗ trợ tài chính cho các nhà đầu tư mua cổ phiếu thường. Được rót tiền, người dân nhất loạt đổ xô vào thị trường. Có lẽ lời lý giải nhận được sự đồng tình hơn cả về thời kỳ này là của giáo sư Lionel Robbins, trường Kinh tế London. Ông kết 15 luận: “Mọi bằng chứng đều cho thấy, từ ngày hôm đó, tình hình đã nằm ngoài tầm kiểm soát.” Quan điểm cho rằng hành động của các quan chức Cục Dự trữ Liên bang năm 1927 có liên quan tới nạn đầu cơ và sự sụp đổ sau đó rất vững chắc. Có nhiều lý do khiến quan điểm này trở nên hấp dẫn đến vậy. Nó đơn giản và xóa bỏ cho cả người Mỹ lẫn hệ thống kinh tế của họ khỏi bất kỳ trách nhiệm nào. Hiểm họa bị người nước ngoài dắt mũi chỉ đường khá rõ ràng, và Norman cũng như Schacht lại đặc biệt nổi tiếng vì những động cơ đen tối. Dù thế, lời giải thích này lại giả định rằng người ta sẽ luôn đầu cơ khi được rót tiền làm việc đó. Trong trường hợp này, nhận định trên đã đi quá xa trong trường hợp này. Trước đây, từng có những khoảng thời gian dài lượng tín dụng rất dồi dào và rẻ mạt – rẻ hơn năm 1927-1929 rất nhiều – nhưng hoạt động đầu cơ khi đó lại không đáng kể. Hoặc như chúng ta sẽ thấy sau này, sau năm 1927, đầu cơ cũng không hẳn nằm ngoài tầm kiểm soát sau năm 1927, ngoại trừ việc nó nằm ngoài tầm kiểm soát của những người không hề muốn kiểm soát. Vì thế, trong các vấn đề kinh tế, lý giải trên chỉ đúng trong một trường hợp nhất định là biểu hiện của sự ưa chuộng có tính chu kỳ những lời nói hết sức vô nghĩa, nhưng còn trong các vấn đề sự kiện kinh tế, nó không còn có giá trị. IV Cho đến tận đầu năm 1928, ngay cả những người bảo thủ cũng tin rằng giá cổ phiếu thường đang bắt kịp với sự gia tăng của lợi nhuận tập đoàn, triển vọng tăng cao hơn nữa, sự yên ổn và thanh bình của thời đại và sự chắc chắn rằng chính quyền với quyền lực tối cao tại Washington sẽ không tăng thuế. Đầu năm 1928, bản chất của sự bùng nổ thay đổi. Cuộc chạy trốn vào thế giới tự biện, mà chủ yếu là tới cuộc truy hoan của nạn đầu cơ đã thật sự bắt đầu. Việc trấn an những người cần một sợi dây nối với thực tế, dù mỏng manh, vẫn cần thiết. Và như chúng ta sẽ thấy, quá trình trấn an lòng tin – hay việc “phát minh” ra một ngành công nghiệp với diện mạo tươi đẹp như khí hậu Florida – cuối cùng đã trở thành một nghề. Tuy nhiên, cũng như mọi giai đoạn của quá trình tự biện, thời điểm người ta cố tình trốn chạy thực tế, tìm lý do để chui vào thế giới ảo đã đến. Rất nhiều dấu hiệu của năm 1928 chứng tỏ thời điểm này đã đến. Dấu hiệu rõ ràng nhất là biểu hiện của thị trường. Những tháng mùa đông năm 1928, thị trường vẫn còn yên ắng, nhưng càng về sau, thị trường càng dâng cao, không phải bằng những bước chậm và chắc, mà bằng những cú nhảy vọt. Thi thoảng, thị trường cũng tụt xuống với cùng tốc độ, nhưng chỉ để hồi phục và lên cao hơn nữa. Tháng 3 năm 1928, chỉ số công nghiệp trung bình tăng gần 25 điểm. Tin bài về sự sôi sục của thị trường được đăng tải thường xuyên trên các trang 16 nhất. Ngay cả trong những lần phát hành riêng lẻ, giá cổ phiếu cũng có thể lên tới 10, 15 và 20 điểm chỉ trong một ngày giao dịch. Ngày 12 tháng 3, Radio (tên viết tắt của tập đoàn Radio Corporation of America) – trên nhiều phương diện là biểu tượng đầu cơ của thời điểm đó – tăng thêm 18 điểm. Vào ngày tiếp theo, mức giá mở cửa của nó cao hơn mức đóng cửa trước đó 22 điểm. Sau đó, nó mất 20 điểm khi xuất hiện thông báo Sàn Giao dịch đang điều tra các hoạt động giao dịch, rồi lại tăng 15 điểm, và sụt 9 điểm. Vài ngày sau, khi thị trường hoạt động mạnh trở lại, nó lại tăng 18 điểm. Sự bùng nổ hồi tháng 3 cũng tôn vinh tài điều tiết thị trường của các nhà giao dịch chuyên nghiệp. Giao dịch chứng khoán được coi là yếu tố phi cá nhân nhất của thị trường cạnh tranh. Không một học thuyết nào được các nhà tiên tri và luật sư bào chữa của Sàn Giao dịch Chứng khoán bảo vệ nghiêm ngặt hơn. “Đây là nơi giá cả phản ánh quy luật cơ bản của cung và cầu”, Sàn Giao dịch Chứng khoán New York đã nói như đinh đóng cột về mình. Tuy thế, ngay cả những kẻ mộ đạo của Phố Wall đôi lúc cũng cho phép mình tin vào ảnh hưởng của một số cá nhân đối với số phận của họ. Ở đâu đó có những ông lớn kéo cổ phiếu lên và dìm chúng xuống. Cùng với sự phát triển của thời kỳ bùng nổ, quyền lực của các ông lớn trong lòng công chúng cũng trở nên tuyệt đối hơn, ít nhất là theo quan điểm tự biện. Theo quan điểm này, vào tháng 3, các ông lớn đã quyết định tăng tốc thị trường. Một số học giả nghiêm túc thậm chí còn suy diễn rằng động thái này là một bước đi được tính toán trước. Nếu điều này là có cơ sở thì nhân vật quan trọng cần được nhắc tới là John J. Raskob. Raskob có những mối quan hệ cực kỳ mạnh. Ông là Giám đốc của General Motors, một đồng minh của Du Ponts và sắp trở thành Chủ tịch Ủy ban Quốc gia của đảng Dân chủ theo sự bổ nhiệm của Al Smith. Nghiên cứu sâu về thị trường, giáo sư Charles Amos Dice của Đại học bang Ohio cho rằng chức vụ mới này của Raskob là dấu hiệu cụ thể của một thế lực mới hình thành tại Phố Wall và được người dân Mỹ công nhận. Giáo sư Dice nhận xét: “Ngày nay, ứng cử viên khôn khéo và hiểu biết của một đảng lớn sẽ bày tỏ thiện chí với một nhân vật tầm cỡ của thị trường chứng khoán… bởi công chúng sẽ luôn nhớ tới ứng cử viên có thiện chí này khi họ đặt bút lên phiếu bầu.” Ngày 23 tháng 3 năm 1928, trên chuyến tàu tới châu Âu, Raskob bày tỏ sự lạc quan về triển vọng của ngành kinh doanh ô tô trong năm đó cũng như thị phần mà General Motors sẽ nắm giữ. Nhiều người cho rằng ông cũng đã nói ngụ ý cổ phiếu của GM sẽ lên tới mức giá mang lại lợi nhuận cao gấp 12 lần(13). Điều này đồng nghĩa với việc tuyên bố cổ phiếu GM sẽ đạt mức giá 225 đôla trong khi mức giá hiện hành là khoảng 187 đôla. New York Times đánh giá đây là “ma thuật của cái tên Raskob” bởi “chút lạc quan” của ông đã 17 châm ngòi cho sự sôi động của thị trường. Thứ bảy, ngày 24 tháng 3, cổ phiếu của GM tăng gần 5 điểm, và ngày thứ hai sau đó, cổ phiếu GM đạt mức 199 đôla. Sự nhảy vọt của GM khi đó đã trở thành chất xúc tác cho sự bùng nổ giao dịch của các cổ phiếu khác. Trong số những người sử dụng ảnh hưởng của mình giật dây thị trường vào mùa xuân năm ấy còn có William Crapo Durant. Durant từng giữ vai trò người tổ chức nghiệp đoàn của GM nhưng đã bị Raskob và Du Ponts đẩy ra khỏi công ty năm 1920. Sau một lần thử sức khác trong ngành ô tô, ông này chuyển sang đầu cơ chứng khoán. Anh em nhà Fisher cũng là những nhân vật có ảnh hưởng trong giới này. Họ là những cựu binh của GM và đã đặt chân tới Phố Wall với khối tài sản kếch sù từ các nhà máy của mình. Ngoài ra, còn phải kể đến một gương mặt nữa là nhà đầu cơ gốc Canada, Authur W. Cutten. Gần thời điểm đó, Cutten đã chuyển 13 Thời đó, khi chơi cổ phiếu, người chơi sẽ thu được lợi nhuận lớn gấp 10 lần. Do đó, khi giá tăng 1,2 thì lợi nhuận sẽ tăng 12 lần và đây là lợi nhuận khi bán cổ phiếu, khác với cổ tức các hoạt động điều tiết thị trường của mình từ Ủy ban Thương mại Chicago sang Phố Wall. Khi trở thành nhà điều tiết thị trường, Cutten đã phải vượt qua rất nhiều trở ngại của bản thân. Ông bị nặng tai và vài năm sau đó, trước một ủy ban của quốc hội, luật sư của ông cũng phải thừa nhận rằng trí nhớ của ông không tốt. Khi quan sát nhóm nhân vật này, giáo sư Dice rất ấn tượng với “viễn cảnh, hy vọng và sự lạc quan vô bờ bến” của họ. Ông nhấn mạnh rằng “họ không bước vào thị trường với tấm áo giáp dày cộp của truyền thống”. Khi điểm lại ảnh hưởng của họ đối với thị trường, giáo sư Dice không tìm được đủ ngôn từ để lột tả hết những gì ông muốn nói: “Với sự dẫn dắt của những hiệp sĩ hùng mạnh trong ngành công nghiệp ô tô, thép và phát thanh, cũng như sự hợp sức (cuối cùng cũng xảy ra) của những nhà giao dịch chuyên nghiệp – những người nhìn thấy tia sáng sau đêm đen, thị trường dưới thời Coolidge hùng dũng tiến về phía trước như đội quân phalăng của Cyrus(14) V Tháng 6 năm 1928, vài đội quân rút lui khỏi thị trường. Những thua lỗ trong ba tuần đầu ngang ngửa với lợi nhuận cao ngất hồi tháng 3. Ngày 12 tháng 6 – ngày thua lỗ nặng nề – là một dấu mốc. Trong suốt hơn một năm, những người nhìn xa trông rộng luôn nói rằng sẽ có ngày khối lượng giao dịch trên Sàn Giao dịch New York đạt con số 5 triệu cổ phiếu. Người ta vẫn cho rằng đây chỉ là lời nói suông, nhưng thực tế dường như đã chứng minh cho điều này. Ngày 12 tháng 3, lượng giao dịch lên tới mức cao nhất trong lịch sử, với 3.875.910 cổ phiếu. Đến cuối tháng, con số này trở thành “chuyện cũ”. Tới ngày 27 tháng 3, đã có 4.790.270 cổ phiếu được mua bán trên thị trường giao dịch. Sau đó, vào ngày 12 tháng 6, số cổ phiếu được đổi chủ lên đến 5.052.790. 18 Radio giảm 23 điểm, New York Times bắt đầu ghi lại những sự kiện này: “Hôm qua, thị trường bò tót Phố Wall đã sụp đổ với tiếng nổ vang khắp thế giới.” Thông báo về cái chết của thị trường bò tót dường như hơi vội vàng. Vào tháng 7, thị trường khởi sắc đôi chút, và tới tháng 8 thì tăng tốc mạnh mẽ. Từ đó trở đi, ngay cả những sự kiện xung quanh cuộc bầu cử cũng không khiến người ta do dự quá lâu. Mọi người giữ thái độ bình thản khi Roger W. Babson(15) phát biểu trước đám đông tại Wellesley, Massachusett vào ngày 17 tháng 9: “Nếu Smith được bầu và Đảng Dân chủ chiếm đa số trong quốc hội, chắc chắn kinh tế sẽ suy thoái vào năm 1929.” Ông này cũng nói thêm: “Hoover và Quốc hội của Đảng Cộng hòa sẽ duy trì sự thịnh vượng cho năm 1929.” Lẽ ra, công chúng phải biết người đó chính là Hoover. Nhưng dù là ai, trong tháng đó, nhà cầm quyền cấp cao vẫn tiếp tục trấn an dân chúng. Bộ trưởng Tài chính Andrew W. Mellon khẳng định: “Không có lý do nào để lo lắng. Đợt sóng thịnh vượng sẽ tiếp tục dâng cao.” Nhưng Mellon và cả những quan chức đưa ra những phát ngôn tương tự đều không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Những lời nói trên không phải là tiên đoán, người ta không thể cho rằng những người đưa ra phát ngôn như thế được phú cho khả năng nhìn xa trông rộng hơn người khác. Mellon chỉ đang tham gia một nghi thức được cho là có tác động lớn tới hoạt động của chu kỳ kinh tế. Người ta tin rằng, bằng cách long trọng tuyên bố sự phồn thịnh sẽ còn tiếp diễn, họ có thể đảm bảo điều đó sẽ thật sự xảy ra. Đặc biệt, trong giới doanh nhân, niềm tin vào sự linh nghiệm của những câu thần chú như thế là rất lớn. VI Hoover đã có một chiến thắng long trời lở đất. Nếu giới đầu cơ biết được Hoover nghĩ gì trong đầu, chắc hẳn thị trường đã sụt giảm mạnh. Trong hồi ký của mình, Hoover viết, ngay từ năm 1925 ông đã bắt đầu lo ngại về “làn sóng đầu cơ dâng cao”. Trong những năm tháng sau đó, lo ngại này dần biến thành báo động, và rồi thành một cái gì đó mấp mé điềm báo của tai họa. “Có những tội ác”, Hoover nói về đầu cơ, “còn xấu xa hơn cả tội giết người và những kẻ gây ra tội ác đó phải chịu trừng phạt thích đáng.” Tuy nhiên, khi đó với cương vị là Bộ trưởng Thương mại, ông cũng không làm được gì nhiều để đặt thị trường dưới tầm kiểm soát. Thái độ của Hoover về thị trường luôn là một bí mật được giữ kín. Người ta không biết đến những nỗ lực biến suy nghĩ thành hành động của ông – những nỗ lực bị cả Coolidge lẫn Cục Dự trữ Liên bang cản đường. Tin tức về cuộc bầu cử, ngoài việc gây hoang mang, còn khơi mào cho cơn sốt mua vào lớn nhất từ trước tới nay. Ngày 7 tháng 11, ngay sau ngày bầu cử, “bùng nổ chiến thắng” đã đẩy thị trường lên 5 đến 15 điểm. Lượng cổ phiếu được giao dịch lên tới 4.894.670, gần bằng mức kỷ lục ngày 12 tháng 6. Ngày 16 tháng 11, một làn 19 sóng mua vào khác lại dấy lên khắp thị trường. Con số gây sốc là 6.641.250 cổ phiếu được trao tay, bỏ xa mức kỷ lục trước. Chỉ số công nghiệp Times tăng ròng 4,5 điểm trong ngày giao dịch – bước tiến đáng kể vào thời điểm đó. Ánh hào quang từ đợt bầu cử chính là yếu tố đem lại sự hứng khởi này. Ngoài thông tin về thị trường, các dòng tít lớn trong ngày chỉ đưa tin về vụ tàu hơi nước Vestris(16) bị chìm và chiến tích “vẻ vang” của các sĩ quan và thủy thủ tàu khi xô đẩy phụ nữ và trẻ em để tự cứu chính mình. Ngày 20 tháng 11 cũng là một ngày trọng đại. Lượng giao dịch – 6.503.230 cổ phiếu – suýt soát ngày 16, nhưng nhìn chung thị trường sôi động hơn. Sáng hôm sau, New York Times ghi nhận “sự náo loạn như bão táp trên thị trường chứng khoán ngày hôm qua chưa từng xảy ra trong lịch sử Phố Wall”. Tháng 12, tình hình không sáng sủa như vậy. Ngay từ đầu tháng đã có một phiên giao dịch xấu. Chỉ trong ngày mùng 8, Radio đã đột ngột giảm tới 72 điểm. Tuy nhiên, sau đó, thị trường nhanh chóng ổn định và hồi phục trở lại. Trong suốt năm 1928, chỉ số công nghiệp Times tăng 86 điểm, từ 245 tới 331. Cũng trong năm đó, Radio tăng từ 85 đến 420 (tập đoàn này vẫn chưa trả đợt cổ tức nào cho cổ đông); Du Pont tăng từ 310 đến 525; Montgomery Ward từ 117 tới 440; Wright Aeronautic từ 69 tới 289. Tổng khối lượng cổ phiếu được giao dịch trên Sàn Giao dịch Chứng khoán New York của cả năm là 920.550.032, vượt xa con số kỷ lục 576.990.875 cổ phiếu đổi chủ của năm 1927. Nhưng vẫn còn một chỉ số quan trọng hơn mô tả những gì đang xảy ra trên thị trường. Đó là sự gia tăng của các giao dịch ký quỹ(17). VII Như đã nói, tại một thời điểm nào đó của thời kỳ bùng nổ, người ta chỉ quan tâm duy nhất đến sự gia tăng ban đầu của giá cả mà không để ý đến các khía cạnh khác của quyền sở hữu tài sản. Thu nhập, lợi ích sử dụng, hay ngay cả giá trị lâu dài của tài sản khi đó chỉ còn là những khái niệm mang tính lý thuyết. Như trong câu chuyện của những lô đất xấu ở Florida, những quyền hoa lợi này có lẽ không tồn tại hoặc thậm chí ở mức âm. Điều quan trọng là ngày mai hoặc tuần sau giá sẽ tăng – như nó đã tăng hôm qua hay tuần trước – và người ta thu được lợi nhuận. Phần thưởng duy nhất mà chủ sở hữu tài sản trong thời kỳ bùng nổ quan tâm là sự gia tăng giá trị. Nếu quyền hưởng giá trị gia tăng được tách ra khỏi những quyền sở hữu không quan trọng khác cũng như những bất lợi của việc sở hữu tài sản, giới đầu cơ sẽ thích thú hơn nhiều. Đó chính là một trong những điểm mạnh của chủ nghĩa tư bản: nơi nào có nhu cầu thật sự, nơi đó sẽ không phải chờ lâu. Tất cả các công cụ đầu cơ đã hiện ra để giúp chuyên gia đầu cơ tập trung vào công việc. Trong thời kỳ bùng nổ tại Florida, ngay cả các giấy chứng nhận mua đất tạm thời cũng được đem 20 ra giao dịch. Không chỉ bản thân lô đất mà ngay cả quyền mua lô đất tại một mức giá nhất định cũng được trao đổi, mua bán. Người ta hoàn toàn có thể bán lại quyền mua đất sau khi đã trả trước 10% tiền mặt. Vì thế, giá đất tăng cực kỳ có lợi cho giới đầu cơ. Khi giá lô đất tăng, nhà đầu cơ có thể bán lại giấy chứng nhận mua đất tạm thời bằng giá tiền anh này đã trả cộng với toàn bộ số chênh lệch. Gánh nặng lớn nhất đối với người sở hữu, dù là đất hay tài sản, là nhu cầu tăng lượng tiền mặt được thể hiện qua giá mua. Việc sử dụng giấy chứng nhận mua đất tạm thời có thể giảm gánh nặng này tới 90% – hay nói cách khác, nó giúp nhà đầu cơ thu lợi gấp 10 lần khi giá tăng. Vì thế, người mua rất vui vẻ từ bỏ các lợi ích sở hữu khác. Các “lợi ích” này bao gồm thu nhập hiện tại – lúc nào cũng bằng 0, và triển vọng sử dụng vĩnh viễn lô đất mà người này không hề có nhu cầu. Thị trường chứng khoán cũng có cách thức riêng để tập trung năng lực của giới đầu cơ, và đúng như mong đợi, nó cải thiện đáng kể sự sơ khai của thị trường địa ốc. Trên thị trường chứng khoán, người mua chứng khoán ký quỹ có toàn quyền sở hữu tài sản khi mua vô điều kiện. Nhưng người mua cũng có thể giải thoát cho mình khỏi gánh nặng khủng khiếp nhất của việc sở hữu – tức gánh nặng đẩy giá mua tăng cao – bằng cách thế chấp cho người môi giới chính chứng khoán của mình khi vay nợ mua các chứng khoán đó. Một lần nữa, người mua lại được hưởng toàn bộ lợi ích của các lần tăng giá – bởi giá chứng khoán có thể tăng, nhưng khoản nợ dùng để mua chúng thì không. Trên thị trường chứng khoán, người mua đầu cơ cũng kiếm lời từ các chứng khoán mua vào. Tuy nhiên, trong những ngày lịch sử này, khoản lời này hầu như luôn thấp hơn và thường là thấp hơn nhiều so với lãi suất phải trả cho khoản nợ. Lợi nhuận từ chứng khoán thường nằm trong khoảng từ 0 tới 1 hoặc 2%. Lãi suất của khoản vay thường là 8%, 10% hoặc cao hơn thế. Do đó, nhà đầu cơ sẵn lòng hi sinh tất cả những quyền liên quan đến việc sở hữu chứng khoán, ngoại trừ cơ hội lãi vốn. Cơ cấu được Phố Wall dùng để tách cơ hội đầu cơ khỏi những hệ quả không mong muốn và gánh nặng của quyền sở hữu rất tài tình, chính xác, và khá hiệu quả. Ngân hàng cung cấp vốn cho nhà môi giới, nhà môi giới lại cấp vốn cho khách hàng, và khoản thế chấp quay trở lại ngân hàng trong dòng chảy êm ả và gần như tự động. Tiền ký quỹ – số tiền nhà đầu cơ phải trả ngoài chứng khoán thế chấp để bảo vệ khoản nợ và phải tăng thêm nếu chứng khoán thế chấp mất giá và khả năng bảo vệ suy yếu – được tính toán và theo dõi rất đơn giản. Tỷ lệ lãi suất được điều chỉnh nhanh chóng và dễ dàng sao cho nguồn cung vốn đáp ứng đủ cho nhu cầu. Tuy thế, Phố Wall chưa bao giờ có thể tự hào với những vai trò này. Họ chỉ giỏi hỗ trợ nhà đầu cơ và xúc tác cho 21 nạn đầu cơ. Nhưng đây lại là vai trò Phố Wall không thể thừa nhận. Nếu họ thừa nhận, hàng ngàn người sẽ kết tội họ dung túng cái xấu và đòi cải cách Phố Wall. Vì thế, giao dịch ký quỹ được bảo hộ không chỉ vì nó trợ giúp khéo léo và hiệu quả cho nhà đầu cơ, mà còn vì nó có khả năng tăng khối lượng giao dịch để biến thị trường mỏng manh và thiếu sức sống trở thành một thị trường vững chắc và khỏe mạnh. Nhưng ngay cả trong trường hợp tốt nhất, đây vẫn là một phó phẩm ế ẩm và không minh bạch. Phố Wall cũng giống như một người phụ nữ xinh đẹp và “thành đạt”, phải đi tất cotton đen, đồ lót bằng lông dầy cộm và khoa trương kiến thức của mình như một người nội trợ tài ba, bởi vì, thật đáng buồn, tài năng tuyệt đỉnh của cô ta chỉ là làm gái điếm. Tuy nhiên, ngay cả người thận trọng nhất của thị trường cũng phải thừa nhận, lưu lượng nợ của các nhà môi giới – các khoản nợ thế chấp bằng chứng khoán ký quỹ – là chỉ số rất chính xác về khối lượng đầu cơ. Theo chỉ số này, lượng đầu cơ tăng rất nhanh trong năm 1928. Đầu những năm 1920, lượng nợ của các nhà môi giới dao động từ khoảng 1 đến 1,5 tỷ đôla và chúng thường được gọi là khoản vay tính theo ngày hay khoản vay nóng do có khả năng thanh khoản rất nhanh. Cho tới đầu những năm 1926, lượng nợ đã tăng lên 2,5 tỷ đôla và giữ ở mức đó trong gần suốt năm. Trong năm 1927, lại có một đợt tăng khoảng 1 tỷ đôla nữa, và đến cuối năm đã đạt mức 3.480.780.000 đôla. Đây là con số rất lớn nhưng nó mới chỉ là sự khởi đầu. Trong hai tháng mùa đông buồn tẻ năm 1928, có một đợt sụt giảm nhỏ, nhưng rồi việc mở rộng lại đâu vào đấy. Ngày 1 tháng 6 năm 1928, các nhà môi giới ôm khoản nợ lên tới 4 tỷ đôla, ngày 1 tháng 11 là 5 tỷ đôla, và cho tới cuối năm là 6 tỷ đôla. Đây là hiện tượng chưa từng xảy ra. Nói cách khác, người ta đổ xô mua cổ phiếu ký quỹ để tăng giá bán mà không phải chịu chi phí sở hữu. Chi phí này ban đầu được ngầm định bởi các ngân hàng New York, nhưng họ nhanh chóng trở thành mối lái cho người vay toàn quốc và cả trên thế giới. Chẳng có bí mật nào về việc tại sao ở New York lại có quá nhiều người muốn cho vay đến vậy. Một trong những nghịch lý của đầu cơ chứng khoán là khoản nợ bảo hiểm cho nó lại là khoản đầu tư an toàn nhất. Chúng được bảo vệ bởi các cổ phiếu mà trong trường hợp bình thường, có thể bán được ngay lập tức; và bởi tiền ký quỹ – số tiền có thể thu lại bất kỳ lúc nào nếu cần. Đầu năm 1928, các hãng cung cấp vốn không rủi ro đặc biệt an toàn và dễ thanh khoản này còn đưa ra mức lãi suất khoảng 5%. Dù 5% đã là con số tuyệt vời, nhưng tỷ lệ lãi suất vẫn tăng đều trong năm 1928, và trong tuần cuối cùng của năm đã lên tới 12%. Và tỷ lệ này vẫn hoàn toàn nằm trong giới hạn an toàn. Tại Montreal, London, Thượng Hải và Hong Kong, ai ai cũng bàn luận về mức lãi suất trên. Khắp các nơi, người ta bảo nhau rằng 12% là 12%. Vàng bắt 22 đầu đổ về Phố Wall, tất cả là để giúp người Mỹ giữ cổ phiếu thường ký quỹ. Các tập đoàn cũng bị hấp dẫn bởi con số béo bở này. Với tỷ lệ 12%, Phố Wall thậm chí còn là công cụ thu lợi nhanh và nhiều hơn bất kỳ nhà máy hay dây chuyền sản xuất nào. Một số công ty thậm chí còn ra quyết định: thay vì sản xuất hàng hóa và phải đối mặt với những vấn đề đau đầu nhức óc, họ sẽ chuyển sang đầu cơ tài chính. Ngày càng nhiều công ty cho Phố Wall vay vốn thặng dư. Tuy nhiên, vẫn còn có những cách kiếm bộn tiền hơn thế. Theo nguyên tắc, các ngân hàng New York có thể vay tiền từ Ngân hàng Dự trữ Liên bang với tỷ lệ 5% và cho vay lại trên thị trường vay nóng ở mức 12%. Quả thật, họ đã làm như vậy. Đây có lẽ là hoạt động đầu cơ thu lời nhất của mọi thời đại. VIII Chưa từng có thời điểm nào có nhiều cách làm giàu và làm giàu dễ dàng hơn năm 1928. Quả thật, đây là năm cuối cùng người Mỹ cảm thấy sôi nổi, phóng khoáng và tràn trề niềm vui. Không phải bởi vì năm 1928 quá hoàn hảo nên không thể duy trì được mà chỉ đơn giản là nó không thể kéo dài mãi mãi. Trong số ra tháng 1 của tạp chí World’s Work, sau khi phản ánh những điều kỳ diệu của năm trước, Will Payne(18) tiếp tục giải thích sự khác biệt giữa một con bạc và một nhà đầu tư. Ông chỉ ra rằng một con bạc chỉ thắng bởi vì người khác thua. Còn với đầu tư, tất cả mọi người đều hưởng lợi. Ông đưa ra ví dụ, một nhà đầu tư mua cổ phiếu của General Motors với giá 100 đôla, bán cho người khác với giá 150 đôla, người này bán cho người thứ ba với giá 200 đôla. Như vậy, tất cả đều kiếm được tiền. Nhưng đúng như Walyer Bagehot(19) từng nhận xét: “Người ta nhẹ dạ nhất khi người ta vui nhất.” Chú thích (7) Calvin Coolidge (1872-1933): Tổng thống Hoa Kỳ thứ 30, đắc cử tổng thống năm 1924. (8) William Jennings Bryan (1860 – 1925): ứng cử viên Đảng Dân chủ năm 1896, 1900 và 1908; Ngoại trưởng thứ 41 của Mỹ. Ông là một trong những người có tiếng nói quan trọng trong lịch sử nước Mỹ - ND. (9) Riviera là tên vùng bờ biển Địa Trung Hải, nổi tiếng về khí hậu tuyệt vời và hấp dẫn số lượng du khách rất lớn từ khắp thế giới - ND. (10) Trong cuốn sách này, chúng tôi sử dụng chỉ số công nghiệp New York Times làm định mức giá cổ phiếu trong ngắn hạn. Đây là mức giá trung bình của 25 cổ phiếu công nghiệp được đánh giá là tốt, có mức thay đổi giá ổn định. Việc lựa chọn chỉ số công nghiệp Times thay vì chỉ số công nghiệp Dow Jones chỉ là do ý thích cá nhân. Đây là chỉ số tôi đã theo dõi trong một thời gian dài. Nó dễ hiểu và dễ nghiên cứu đối với một nhà quan sát không chuyên như tôi. (11) Lindberg: Tên đầy đủ là Charles Augustus Lindberg, là phi công và nhà thám hiểm nổi tiếng người Mỹ. Ông đã được cả thế giới biết đến khi thực 23 hiện chuyến bay xuyên Đại Tây Dương, từ sân bay Roosevelt Field tới Paris trên chiếc máy bay một lớp cánh, một chỗ ngồi, và một động cơ vào ngày 20 tháng 5 năm 1927. (12) Herbert Clark Hoover (1874 – 1964): Tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ (1929 – 1933) là một nhà cầm quyền theo chủ nghĩa nhân đạo. Hoover gặp rất nhiều khó khăn trên cương vị tổng thống do hậu quả của đợt suy thoái nghiêm trọng bắt đầu năm 1929, năm đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống của ông. Ông đã cố gắng đấu tranh chống suy thoái bằng những nỗ lực tự nguyện và hành động của chính phủ, tuy nhiên không biện pháp nào tạo nên sự phục hồi kinh tế trong suốt thời gian ông đương nhiệm - ND. (13) Là một dạng đội hình được tuyển chọn kỹ, sẵn sàng chiến đấu thời Hy Lạp cổ đại - ND. (14) Là một dạng đội hình được tuyển chọn kỹ, sẵn sàng chiến đấu thời Hy Lạp cổ đại - ND. (15) Roger Ward Babson (1875 – 1967): là người thành lập trường Đại học Babson ở Massachusetts và là một nhà thầu khoán, doanh nhân đầu thế kỷ XX - ND. (16) Vestris: ngày 12/11/1928 chiếc tàu khách Vestris đã bị đắm gần bờ biển Virginia đang trên hành trình từ New York đến Barbados. Theo ước tính, vụ đắm của chiếc tàu Vestris này đã làm 113 người thiệt mạng. Đây là một vụ tai nạn lớn vào hồi đó - ND. (17) Giao dịch ký quỹ (margin trading hay trading on the margin – hay còn được gọi là giao dịch bảo chứng): là phương thức giao dịch cho phép nhà đầu tư mượn tiền của nhà môi giới (công ty môi giới) để mua chứng khoán, trong trường hợp họ không đủ tiền. Nó giống như một khoản vay thông thường có thế chấp, do một cá nhân thực hiện, để có tiền đáp ứng cho nhu cầu đầu tư - ND. (18) Will Payne: một tác giả viết sách, đạo diễn chương trình truyền hình người Mỹ - ND (19) Walyer Bagehot (1826 – 1877): doanh nhân, nhà văn tiểu luận và nhà báo chuyên viết về các vấn đề liên quan đến văn học, chính trị và kinh tế - ND. 24 CHƯƠNG II Có nên làm điều gì đó? Năm 1929 quả là một năm định mệnh đáng nhớ. Lý do không phải vì đó là năm Hoover – một người không có những ý định tốt với thị trường – chuẩn bị trở thành Tổng thống Mỹ. Lý do cũng không phải vì các nhà thông thái tiên đoán giai đoạn suy thoái đã qua. Không một ai, dù thông thái hay không, có thể biết khi nào các cuộc khủng hoảng đến hạn và quá hạn. Đúng hơn, lý do chỉ đơn giản là vì sự bùng nổ vang dội của thị trường chứng khoán vẫn đang trên đà phát triển và cũng như tất cả các chu kỳ bùng nổ, nó phải kết thúc. Ngày 1 tháng 1 năm 1929, như một bài toán xác suất đơn giản, khả năng thời kỳ thịnh vượng sẽ đi đến hồi kết trước thời điểm cuối năm là rất lớn, và khả năng phục hồi vào những năm sau đó là rất mong manh. Khi giá cả ngừng tăng – hay nói cách khác, khi lượng người mua vì cái lợi tăng giá thưa dần – quyền sở hữu cổ phiếu ký quỹ không còn ý nghĩa nữa và ai cũng muốn bán ra. Thị trường mất cân bằng và nhanh chóng sụp đổ. Và như thế, nó đặt những người có chút trách nhiệm với những gì đang diễn ra vào một tình thế phức tạp. Một trong những vấn đề nan giải từ bao đời của chính trị là ai sẽ quản lý các nhà quản lý. Nhưng vẫn còn một vấn đề gay go không kém song lại chưa từng được quan tâm thích đáng, đó là ai sẽ dạy khôn cho những người lẽ ra phải khôn ngoan. Một số nhân vật quyền thế muốn thời kỳ thịnh vượng này kéo dài thêm. Họ đang kiếm được bộn tiền, và có lẽ họ đã chột dạ trước thảm họa có thể xảy đến cho chính mình nếu thời kỳ bùng nổ kết thúc. Nhưng cũng có một số khác, dù là mơ hồ, đã nhận thấy rằng nạn đầu cơ đang diễn ra mạnh mẽ và cần phải làm gì đó. Tuy vậy, đối với những người này, mỗi đề xuất hành động lại làm nảy sinh một vấn đề nan giải. Những hệ lụy khi hành động cũng tồi tệ chẳng kém gì những hệ lụy khi ngồi im, và chúng có thể gây thiệt hại nặng nề hơn cho những ai thực hiện hành động đó. Chọc thủng bong bóng là việc quá dễ dàng. Nhưng chọc một chiếc kim và để bong bóng xẹp dần lại là một nhiệm vụ đòi hỏi người châm kim phải thật khéo léo. Những người cảm nhận được những gì đang diễn ra đầu năm 1929 vẫn hy vọng dù không mấy tin rằng sự bùng nổ có thể lắng dần xuống. Lựa chọn lúc đó là cố tình gây sụp đổ tức thời hay là chờ đợi một thảm họa ghê gớm hơn về sau. Chắc chắn phải có ai đó chịu trách nhiệm khi tai họa cuối cùng ập đến. Nhưng không ai cố công tìm hiểu xem ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm nếu bong bóng này được chọc cho xì hơi. (Trong gần một thập kỷ, các quan chức của Cục Dự trữ Liên bang vẫn luôn phủ nhận trách nhiệm của 25 họ đối với thời kỳ giảm phát 1920- 1921). Thảm họa vào hồi cuối cũng có lợi thế vô giá là kéo dài thêm vài ngày, vài tuần hay vài tháng cuộc đời. Ai đó có thể không tin rằng đầu năm 1929, vấn đề này đã từng được đưa ra với những lựa chọn khắc nghiệt đến vậy. Nhưng dù có trốn tránh hay ngụy trang thì đó vẫn là những lựa chọn đã từng ám ảnh tất cả các cuộc hội thảo khi bàn về giải pháp cho thị trường. II Những thành phần có trách nhiệm đối với những lựa chọn không thể tránh khỏi này gồm Tổng thống Mỹ, Bộ trưởng Tài chính, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, và Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York. Là ngân hàng mạnh nhất và có thị trường dồi dào nhất trong số các ngân hàng của hệ thống dự trữ liên bang, Ngân hàng New York vừa đảm nhiệm vừa được giao phó những trọng trách mà 11 ngân hàng còn lại không có. Tổng thống Coolidge không biết và cũng không quan tâm gì đến thời cuộc. Vài ngày trước khi rời ghế tổng thống năm 1929, ông còn hào hứng nhận xét rằng mọi thứ “hoàn toàn bình thường” và giá cổ phiếu “đang ở mức rẻ”. Trong những năm đầu, mỗi khi bị cảnh báo về việc nạn đầu cơ đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát, ông đều tự an ủi mình rằng đây là trách nhiệm của Cục Dự trữ Liên bang. Cục này là một đơn vị bán tự động chính vì lý do Quốc hội Mỹ muốn bảo vệ nó trước bất kỳ sự can thiệp chính trị nào của người đứng đầu đất nước. Nhưng dù có do dự đến đâu, Tổng thống Coolidge vẫn có thể hành động kịp thời thông qua Bộ trưởng Tài chính của mình, người đồng thời giữ vai trò là thành viên chính thức của Cục Dự trữ Liên bang. Bộ trưởng cũng chính là người chịu trách nhiệm chính về kinh tế và đặc biệt là chính sách tài chính. Nhưng về mặt này cũng như các vấn đề khác của chính sách kinh tế, Andrew W. Mellon chỉ đóng vai trò là người ủng hộ nhiệt tình chủ nghĩa “giậm chân tại chỗ”. Trách nhiệm vì thế lại đổ lên vai Cục Dự trữ Liên bang và các Ngân hàng Dự trữ Liên bang. Việc điều tiết hoạt động kinh tế là hoạt động công phức tạp và ít được tưởng thưởng nhất. Về nguyên tắc, gần như ai cũng phản đối nó. Các quy định được đặt ra trong các cuộc tranh cãi ầm ĩ ở Quốc hội, nơi mà lợi ích riêng của các nhóm luôn đẩy sức ép dâng cao đến độ suýt chuyển thành cực đoan. Việc công bố và thi hành các nguyên tắc và quy định được thể hiện qua nỗ lực đập tan bộ máy quan liêu, nhưng hành động này lại không ngừng bị chỉ trích. Trong những lần gần đây, các nhà quản lý bị bắt phải thừa nhận sự yếu kém của mình tại tất cả những dịp có thể, dù những nhiêu khê này là quá rõ ràng. Trường hợp ngoại lệ duy nhất trong câu chuyện đáng buồn này là hoạt động điều tiết của ngân hàng trung ương – mà ở đây là Hệ thống Dự trữ Liên bang. Đây là loại hình điều tiết đúng đắn và thích hợp. Không ai phải đứng lên 26 nhận lỗi; những người theo chủ nghĩa bảo thủ sẵn sàng lên tiếng tán thành nếu có cơ hội, mặc dù họ hầu như không bao giờ được mời phát biểu. Việc điều tiết không phải là công việc của hàng ngàn nhân viên văn phòng, thống kê, pháp lý, luật sư và những nhân viên “tép riu” chen chúc trong các văn phòng trên phố. Đúng hơn là nó trỗi dậy từ những cuộc thảo luận có chừng mực và trình tự của những nhân vật với dung mạo điềm tĩnh và có phẩm hạnh cao quý. Mỗi người trong số họ an tọa tại vị trí quen thuộc xung quanh một chiếc bàn đẹp trong một căn phòng với ván lát trang hoàng và rèm treo lộng lẫy. Những quý ông này không ra lệnh, cùng lắm họ chỉ đưa ra gợi ý. Quan trọng nhất là họ giật dây tỷ lệ lãi suất, mua bán cổ phiếu và bằng cách đó, huých cùi chỏ thị trường chỗ này một tí, và thắt chặt chỗ kia một chút. Vì phần lớn mọi người không hiểu được mục đích hành động của họ, nên họ càng có lý do để làm ra vẻ là những người thông thái vượt bậc. Họa hoằn lắm những hành động đó mới bị phê bình và chỉ bị phanh phui vì những động cơ ngầm. Đó là điều thần bí trong nghiệp vụ của ngân hàng trung ương. Đó là vai trò gây kinh hoàng trong năm 1929 của Cục Dự trữ Liên bang ở Washington, bộ máy hoạch định chính sách với cương vị dẫn lối chỉ đường cho 12 ngân hàng thành viên. Tuy nhiên, có một khó khăn lớn cản đường. Đó là Cục Dự trữ Liên bang vào những ngày ấy là một bộ máy thiếu trình độ trầm trọng. Trước thời điểm cuối năm 1927, vị giám đốc và đáng lẽ phải là thiên tài lãnh đạo của Cục là Daniel R. Crissinger(20). Crissinger được đào tạo cho cương vị này bằng việc giữ chức cố vấn chung cho Công ty Marion Steam Shovel tại Marion, Ohio. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ ông này là một “học viên” tài cán. Ấy vậy mà thành tích này dường như lại đủ để gây ấn tượng với một người Marion khác là Warren G. Harding(21). Harding đã đưa Crissinger tới Washington, tại đây, Harding được biết đến với biệt danh “chính trị gia quèn đến từ Ohio”. Năm 1927, Roy A. Young, từng là Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Minneapolis trong vòng 8 năm, lên thay Crissinger. Young là một nhân vật có tiếng tăm hơn và hẳn là biết rõ chuyện gì đang diễn ra. Tuy vậy, ông là người cẩn trọng, không muốn lao vào làm anh hùng rơm một cách vô nghĩa. Đồng nghiệp của ông là những người không có gì xuất chúng, do liên minh HardingCoolidge bổ nhiệm, chỉ có duy nhất cựu giảng viên đại học Adolph C. Miller là trường hợp ngoại lệ. Cơ quan này được Herbert Hoover miêu tả một cách bảo thủ là những “thường nhân”. Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York được lãnh đạo bởi một bộ máy vững mạnh hơn. Trong vài năm, cho tới năm 1928, Thống đốc ngân hàng này là Benjamin Strong, người Mỹ đầu tiên, sau Nicholas Biddle, từng tạo tiếng tăm với cương vị ông chủ ngân hàng trung ương. Đối với Cục Dự trữ Liên bang, quan điểm của Strong chỉ kém kinh hoàng hơn so với vụ bản vị vàng một chút. 27 Tuy nhiên, trong mắt của Herbert Hoover – và trong trường hợp này quan điểm của Hoover được nhiều người tán thành – Strong không chỉ dính líu mà còn là người phải “chịu trách nhiệm cao nhất” giải quyết nạn lạm phát. Chính ông ta là người tiên phong nới lỏng chính sách tiền tệ giúp người châu Âu đang trong cảnh nguy khốn năm 1927. Chính vì thế, Hoover đã gọi Strong là “phụ gia tinh thần cho cả châu Âu”. Đây là lời nhận xét không công bằng. Hành động của Thống đốc Strong là hoàn toàn có cơ sở trong hoàn cảnh đó và như đã trình bày ở chương trước, khả năng vay mượn tiền dễ dàng từ ngân hàng chưa đủ để bắt đầu một đợt đầu cơ. Dưới sự lãnh đạo của Strong, Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York không bị xáo trộn nhiều bởi nạn đầu cơ. Ngay cả sau khi ông qua đời vào tháng 10 năm 1928 và vị trí của ông được George L. Harrison lên thay cũng vậy. Một lý do rõ ràng là ngân hàng này nhận được sự đảm bảo của các ông lớn đồng thời cũng là những kẻ đầu cơ mạnh nhất. Một trong số đó là Charles E. Mitchell, Giám đốc Ngân hàng National City, người trở thành Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York vào ngày 1 tháng 1 năm 1929. Hồi kết của thời kỳ bùng nổ có nghĩa là Mitchell cũng tàn đời. Và ông ta rõ ràng không phải là mẫu người muốn tự hại mình. III Trong lịch sử đã được thừa nhận rỗng rãi, các quan chức Cục Dự trữ Liên bang không phải là không hề hay biết thực tế đang diễn ra hay không sẵn lòng cứu nguy tình hình. Họ cũng muốn ngăn chặn sự bùng nổ quá mức, nhưng họ lại không có công cụ trong tay. Đợt bùng nổ khoác lên mọi việc một vẻ ngoài quá chỉn chu; và nó che giấu bản chất thật sự của thế tiến thoái lưỡng nan mà các nhà chức trách đang phải đối đầu. Những công cụ kiểm soát thông thường đều vô dụng. Như hầu hết các sinh viên đại học đều biết rõ, để kiểm soát thị trường, người ta sử dụng hai công cụ: nghiệp vụ thị trường mở (điều tiết, dùng tiền của Cục Dự trữ Liên bang để mua bán trái phiếu) và kiểm soát tỷ lệ tái chiết khấu. Việc Cục Dữ trữ Liên bang bán trái phiếu chính phủ trên thị trường mở đem lại cho các Ngân hàng Dự trữ nguồn tiền mặt để trả cho cổ phiếu. Tại đây, tiền không sinh lời và vô hại. Nếu tiền vẫn nằm trong các ngân hàng thương mại, nó sẽ được tung ra cho dân vay với số lượng lớn và trong những ngày đó là cho cả những người đổ xô đi mua cổ phiếu thường. Nếu chính sách này thành công, Hệ thống dự trữ liên bang chắc chắn phải có trái phiếu để bán. Một trong những điều rất may mắn mà những năm khủng hoảng, chiến tranh và thâm hụt ngân sách sau năm 1930 mang lại là lượng nợ tồn kho khổng lổ của chính phủ trong các Ngân hàng Dự trữ. Năm 1929, nguồn tiền của các Ngân hàng Dự trữ không thật sự dồi dào. Đầu năm 1928, số trái 28 phiếu mà hệ thống Dữ trữ Liên bang nắm giữ có giá trị 617 triệu đôla. Trong sáu tháng đầu năm, có nhiều giao dịch lớn với nỗ lực nhằm vắt kiệt nguồn cung đang nuôi sống thị trường của quỹ vốn. Mặc dù việc bán ra bị gián đoạn trong sáu tháng cuối năm do niềm tin mù quáng rằng chính sách này đã thành công và thời kỳ bùng nổ đã nằm trong tầm kiểm soát, nhưng quả thật, chúng cũng không thể kéo dài lâu hơn nữa. Tới cuối năm 1928, lượng trái phiếu chính phủ tồn kho trong Hệ thống dự trữ liên bang chỉ còn 228 triệu đôla. Nếu tất cả lượng trái phiếu này được tung ra thị trường, rất có thể chúng sẽ gây ra tác động nào đó. Nhưng Cục Dự trữ Liên bang lại không có một biểu hiện nào quyết liệt như thế, và điều này đã vô tình cướp đi phần lớn tài sản của các Ngân hàng Dự trữ. Giao dịch mỗi lần lên tới vài triệu đôla, nhưng không có tác động đáng kể. Hơn thế, ngay cả khi thực hiện chính sách mong manh mà Cục Dự trữ Liên bang ít lo ngại nhất là chặn dòng tiền chảy vào thị trường chứng khoán, việc kinh doanh “hợp pháp” vẫn có thể bị đẩy vào tình thế khó khăn. Các Ngân hàng Dự trữ tiếp tục mua thương phiếu – loại chứng khoán được sử dụng trong tiến trình cung cấp vốn cho các giao dịch thông thường – và khi không còn phải giữ tờ giấy này nữa, các ngân hàng thương mại vui vẻ cho thị trường chứng khoán vay nhiều hơn. Một công cụ khác trong chính sách của Cục Dự trữ Liên bang là điều chỉnh lại tỷ lệ lãi suất tái chiết khấu. Đây là tỉ suất mà các ngân hàng thương mại thành viên có thể vay từ các Ngân hàng Dự trữ địa phương nhằm mở rộng hơn nữa khối lượng cho vay, vượt cả mức tài sản của họ. Tháng 1 năm 1929, tỷ lệ lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York là 5%. Tỷ lệ cho các khoản vay của nhà môi giới dao động từ 6 đến 12%. Chỉ một đợt gia tăng lãi suất đột biến mới cũng có thể khiến một ngân hàng không thể kiếm lời khi cho nhà đầu tư chứng khoán vay trực tiếp hay gián tiếp số tiền vay được từ Ngân hàng Dự trữ. Ngoài ác cảm chung đối với những hành động mang tính đột ngột, sự gia tăng như thế cũng sẽ làm tăng tỷ lệ lãi suất áp dụng cho các nhà đầu tư thông thường, người tiêu dùng và nông dân. Trên thực tế, tỷ lệ lãi suất cao hơn sẽ khiến tất cả mọi người lo lắng, trừ kẻ đầu cơ. Chẳng hạn, một người trả trung bình khoảng 10% để giữ cổ phần của Radio trong cả năm 1928 sẽ không nản lòng hay khó chịu khi tỷ lệ lãi suất cao gấp đôi bởi anh ta có thể thu về 500% giá trị đầu tư ban đầu nhờ vào giá trị đầu tư tăng. Ngày 14 tháng 2 năm 1929, Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York đề xuất tăng tỷ lệ lãi suất tái chiết khấu từ 5 lên 6% để kiểm soát nạn đầu cơ. Cục Dự trữ Liên bang tại Washington cho rằng đây là động thái vô nghĩa bởi nó sẽ chỉ tác động đến các doanh nghiệp đi vay. Một cuộc tranh cãi đã nổ ra sau đó khi Tổng thống Hoover nghiêng về phía Cục và bác bỏ quyết định của Ngân hàng. Vì thế, tới cuối mùa hè năm đó, tỷ lệ lãi suất mới được điều chỉnh tăng. 29 Còn một yếu tố khác tạo cớ cho các quan chức Cục Dự trữ Liên bang im hơi lặng tiếng, đó là dòng vốn từ các tập đoàn và cá nhân vào thị trường. Trong năm 1929, tập đoàn Standard Oil ở New Jersey đóng góp trung bình mỗi ngày khoảng 69 triệu đôla cho thị trường vay nóng, Electric Bond and Share khoảng trên 100 triệu. Một số công ty khác, chẳng hạn như Cities Service, thậm chí còn bán cả cổ phiếu đi để cho vay tiền. Cho tới đầu năm 1929, các khoản cho vay từ nguồn ngoài ngân hàng đã gần bằng các khoản cho vay từ ngân hàng. Càng về sau, chúng càng áp đảo. Vì thế, các quan chức Cục Dự trữ Liên bang mặc nhiên coi như họ không có bất kỳ ảnh hưởng nào tới việc cung cấp tiền. IV Thực ra, sự bất lực của Cục Dự trữ Liên bang xuất phát một phần từ ý muốn của chính họ. Nếu thật sự quyết tâm, họ đã có thể đề xuất Quốc hội trao cho họ quyền quy định các tiêu chuẩn ký quỹ để kiểm soát giao dịch ký quỹ. Mức ký quỹ năm 1929 không thấp nhưng lo ngại đã khiến phần lớn nhà môi giới yêu cầu khách hàng trả trước 45 đến 50% giá trị cổ phiếu họ đang mua vào. Tuy nhiên, số tiền đó chẳng đáng là bao so với những gì khách hàng có. Nếu mức ký quỹ tăng lên 75% vào tháng 1 năm 1929, hoặc thậm chí nếu phía Cục Dữ trữ Liên bang có thể đưa ra một đề xuất nghiêm túc, thì chắc hẳn nhiều nhà đầu cơ nhỏ và một số nhà đầu cơ lớn sẽ phải bán ra. (Sau này, quyền quy định các tiêu chuẩn ký quỹ cũng được trao cho Cục Dự trữ Liên bang theo Ðạo luật Trao đổi Chứng khoán năm 1934, một năm mà nguy cơ nạn đầu cơ tái sinh ngang bằng nguy cơ áp dụng lại lệnh giới nghiêm.) Dù vậy, ngay cả một đạo luật mới hay sự đe dọa sẽ có một đạo luật như thế cũng đều không cần thiết. Năm 1929, chỉ cần một quan chức cấp cao nào đó thẳng thắn lên tiếng phản đối các nhà đầu cơ cùng nạn đầu cơ và cảnh báo rằng thị trường đang dâng quá cao, giai đoạn bùng nổ sẽ lắng xuống. Nó có thể đưa một số người trở về từ thế giới của tự biện. Những người dự định bám trụ lại trên thị trường càng lâu càng tốt nhưng vẫn biết lúc nào nên nhảy ra khỏi thị trường sẽ rút ra hoặc nắm lấy vị thế giá xuống. Nỗi lo lắng của họ có thể sẵn sàng chuyển thành cơn sốt bán ra. Và một khi đã bắt đầu bán ra, sự bi quan sẽ dễ dàng cuốn phăng tất cả. Chính tính hiệu quả của phương pháp này đã làm nảy sinh vấn đề. Trong tất cả các vũ khí của Cục Dự trữ Liên bang, ngôn từ là thứ có hậu quả khó lường nhất. Nó có thể gây tác động đột ngột và khủng khiếp. Hơn thế nữa, những hệ lụy do nó gây ra có thể giúp lần ra người phát ngôn một cách chính xác. Và sau đó sẽ là sự trừng phạt. Vì thế, đối với các quan chức cẩn trọng của Cục Dự trữ Liên bang trong những tháng đầu năm 1929, im lặng dường như là vàng. 30 Trong bối cảnh như vậy, sự bùng nổ vẫn tiếp tục diễn ra. Vào tháng 1, chỉ số công nghiệp Times tăng 30 điểm, hơn cả thời điểm sau khi cuộc bầu cử kết thúc vào tháng 11. Khi thị trường cất cánh với sự khởi đầu sôi sục ngay sau ngày 1 tháng 1, năm ngày sau đó, các khoản vay của nhà môi giới nhảy vọt lên tới 260 triệu đôla; trong ba ngày, lượng giao dịch trên Sàn Giao dịch Chứng khoán New York đã vượt ngưỡng 5 triệu đôla. Hành động quyết liệt sẽ là tai họa, nhưng Cục cũng không thể ngồi im mãi. Cuối cùng, Cục Dự trữ Liên bang quyết định soạn một bức thư và tiến hành họp báo. Đó là việc đơn giản nhất họ có thể làm được. Ngày 2 tháng 2, họ đề cập tới các Ngân hàng Dự trữ thành viên như sau: Ngân hàng thành viên [ngân hàng thương mại] không thể đòi bồi thường cho việc cung cấp tái chiết khấu tại Ngân hàng Dự trữ khi vay tiền vì mục đích cho vay đầu cơ hay duy trì các khoản vay đầu cơ. Cục Dự trữ Liên bang sẽ không can thiệp vào hoạt động cho vay của các ngân hàng thành viên, nếu các ngân hàng này không liên quan trực tiếp tới các Ngân hàng Dự trữ Liên bang. Tuy nhiên, Cục Dự trữ Liên bang sẽ chịu trách nhiệm khi có bằng chứng cho thấy các ngân hàng thành viên đang duy trì các khoản vay chứng khoán mang tính chất đầu cơ bằng tín dụng dự trữ liên bang. Ngày 7 tháng 2, trong một ví dụ có lẽ là hoàn hảo hơn của thể loại văn bản tín dụng mà người am hiểu có thể đọc cả xuôi lẫn ngược, Cục Dự trữ Liên bang cảnh báo công chúng như sau: Nếu Cục Dự trữ Liên bang tìm thấy các yếu tố phát sinh ngăn cản các Ngân hàng Dự trữ Liên bang thực thi nhiệm vụ điều tiết việc cung cấp tín dụng của Hệ thống Dự trữ Liên bang để phục vụ cho thương mại và kinh doanh, nhiệm vụ của Cục Dự trữ Liên bang là xem xét cẩn thận và tiến hành các biện pháp phù hợp và hiệu quả trong từng trường hợp để chấn chỉnh lại, và trong hoàn cảnh hiện tại, điều này đồng nghĩa với việc hạn chế sử dụng, dù là trực tiếp hay gián tiếp, các công cụ của Cục Dự trữ Liên bang để hỗ trợ cung cấp tín dụng cho các hoạt động đầu cơ. Xuất hiện gần như cùng lúc với lời cảnh báo đó là tin tức về việc Ngân hàng Anh quốc tăng tỷ lệ lãi suất từ 4 lên 5% để ngăn dòng tiền trong ngân quỹ nước này chảy sang Phố Wall. Hành động này của Ngân hàng Anh quốc đã gây ra sự gián đoạn đột ngột trên thị trường. Ngày 7 tháng 2, một trong những ngày khối lượng giao dịch đạt mức 5 triệu cổ phiếu, chỉ số công nghiệp Times trượt 11 điểm, và trượt sâu hơn nữa vào ngày kế tiếp. Sau đó, dù thị trường có hồi phục lại, nhưng trong cả tháng 2, lợi nhuận ròng thu được chẳng đáng là bao. Các nhà kinh tế học từ lâu đã gọi hành động này là nỗ lực “gây áp lực để đạt được mục đích” của Cục Dự trữ Liên bang. Tuy nhiên, do thị trường chỉ 31 được kiểm soát tạm thời, nên tất cả đều ngầm công nhận hành động xoa dịu tinh thần này là một sai lầm lớn. Người ta hoàn toàn có thể và lẽ ra nên đưa ra kết luận ngược lại. Khó có thể tưởng tượng ra một thông cáo nào êm ả hơn, kém dứt khoát hơn và dễ gây kích động hơn là thông cáo do Cục ban ra. Tuyên bố rằng Cục Dự trữ Liên bang không có ý định can thiệp vào các khoản cho vay hỗ trợ nạn đầu cơ, miễn là tín dụng Dự trữ Liên bang không có liên đới là rất đáng chú ý. Rõ ràng, Cục Dự trữ Liên bang muốn trốn tránh trách nhiệm khi nạn đầu cơ đang hoành hành hơn là kiểm soát nó. Và bất kỳ ai có ý định tuyên bố nạn đầu cơ không dừng ở mức độ hiện tại mà còn đi xa hơn nữa đều sẽ được theo dõi bằng ánh mắt dè chừng. Quả thật, trong tình huống rối bời này, ngay cả một lời nói bâng quơ nhất cũng có thể gây sốc đột ngột. V Sự lo lắng của thị trường và tư cách thẩm quyền chắc chắn của những quan chức cũng đang lo lắng không kém tại Cục Dự trữ Liên bang ngày càng được thể hiện rõ hơn vào tháng 3. Khi chuẩn bị bước sang tháng mới, Tổng thống Coolidge đã đưa ra một nhận xét khá vô tư rằng giá cổ phiếu đang rẻ và đất nước đang ổn định. Thị trường đã tăng điểm mạnh trong cái mà các tờ báo gán cho cái tít “Thị trường nhân ngày nhậm chức”, và vào ngày 4 tháng 3, khi thái độ của Coolidge đối với các nhà đầu cơ vẫn còn chưa ngã ngũ thì Hoover đã chính thức tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Trong vài tuần tiếp theo, thị trường vẫn hoạt động ổn định. Đến cuối tháng, những tin xấu bắt đầu bay tới Phố Wall. Cục Dự trữ Liên bang tổ chức họp bàn hàng ngày tại Washington. Họ không đưa ra một tuyên bố nào. Các tờ báo ráo riết đặt câu hỏi cho các thành viên sau mỗi buổi họp nhưng đều vấp phải sự im lặng. Không một ai tiết lộ nội dung các cuộc họp, mặc dù tất cả đều biết chúng liên quan tới tình hình thị trường. Các buổi họp tiếp diễn ngày qua ngày, và thậm chí buổi họp vào chiều thứ Bảy hy hữu đã diễn ra. Chẳng bao lâu sau, mọi chuyện đã đi tới giới hạn cuối cùng. Thứ Hai, ngày 25 tháng 3 – ngày giao dịch đầu tiên sau buổi họp không chính thức hôm thứ Bảy, sự căng thẳng trở nên quá sức chịu đựng. Mặc dù, hay đúng hơn là vì Washington vẫn im lặng, người ta bắt đầu bán tháo. Các cổ phiếu yêu thích của các nhà đầu cơ như Commercial Solvents, Wright Aero, American Railway Express giảm ít nhất 10 – 12 điểm; chỉ số công nghiệp trung bình Times trượt 9,5 điểm trong ngày hôm đó. Quan trọng hơn, một số ngân hàng quyết định rằng trong trường hợp Cục Dự trữ Liên bang kiểm soát thẳng tay, đạo đức còn quan trọng hơn doanh thu. Họ bắt đầu điều chỉnh các khoản nợ trên thị 32 trường vay nóng, và lãi suất đối với những khoản nợ của các nhà môi giới tăng lên tới 14%. Vào ngày tiếp theo, thứ Ba, ngày 26 tháng 3, tình hình còn diễn biến xấu hơn nhiều. Cục Dự trữ Liên bang vẫn giữ im lặng dù lúc này, sự im lặng đó là không đáng có. Một bầu không khí sợ hãi bao trùm toàn bộ thị trường. Ngày càng có nhiều người quyết định bán ra, và bán ra với số lượng lớn. Có ngày, số lượng cổ phiếu giao dịch trên Sàn Giao dịch Chứng khoán lên tới 8.246.740, vượt xa bất kỳ kỷ lục nào trước đó. Giá cả dường như trượt theo chiều thẳng đứng. Cổ phiếu mất 20 – 30 điểm là chuyện thường tình. Chỉ số công nghiệp Times có lúc thấp hơn mức đóng cửa ngày hôm trước tới 15 điểm. Hàng ngàn nhà đầu cơ vốn quen với việc chứng kiến thị trường đi lên, lần đầu tiên cảm nhận được mặt trái của cuộc sống mới. Mỗi bảng báo giá mới lại thấp hơn bảng báo giá trước đó. Băng điện báo cũng không thể kham nổi khối lượng bán ra lịch sử như thế nên không thể cập nhật kịp thời biến động trên thị trường. Mọi thứ không chỉ tồi tệ. Tình hình ngày càng trở nên xấu hơn, nhưng không ai có thể dựa vào điện báo để nói chính xác mọi thứ tồi tệ hơn trước bao nhiêu. Trước khi ngày giao dịch kết thúc, rất nhiều nhà đầu tư nhận được điện báo từ các nhà môi giới của họ – nó đối lập hoàn toàn với giọng điệu động viên, đầy tin tưởng như của ông bác giàu có (chính phủ Mỹ) trong các lần điện báo trước đó. Lần này, bức điện báo đưa ra thông báo nộp thêm tiền ký quỹ. Trong khi đó, các ngân hàng vẫn tiếp tục hạ buồm để chuẩn bị chống bão. Rất có thể, một số nhà giao dịch chuyên nghiệp đã bán ra vì dự đoán được thời điểm sẽ không còn tiền để duy trì cổ phiếu bảo chứng ký quỹ. Và thời khắc đó có thể đã cận kề, khi sáng ngày 26 tháng 3, tỷ lệ lãi suất vay nóng chạm ngưỡng 20%, mức cao nhất trong thời kỳ bùng nổ năm 1929. Lẽ ra, ngày 26 tháng 3 năm 1929 đã có thể sẽ là ngày cuối cùng. Cung tiền lẽ ra phải được tiếp tục thắt chặt. Các nhà chức trách lẽ ra vẫn tiếp tục kiên định với ý định đã chọn. Sự hoảng loạn lẽ ra phải tiếp tục diễn ra. Mỗi lần trượt giá đã có thể đẩy nhà đầu cơ vào cơn sốt bán ra, và vì thế dìm giá cả xuống thấp hơn nữa. Nhưng tất cả đã không xảy ra, và nếu cần phải vinh danh một cá nhân nào đó về hành động dũng cảm này, thì người đó chính là Charles E. Mitchell. Các quan chức Dự trữ Liên bang có thể có động cơ nhiều chiều, nhưng Mitchell thì không. Ông là người ủng hộ thời kỳ bùng nổ. Hơn thế với cương vị là người đứng đầu hai ngân hàng thương mại lớn và có ảnh hưởng nhất, cộng thêm uy tín của một chủ ngân hàng đầu tư thành công, tháo vát, và địa vị Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, nên lời nói của Mitchell có trọng lượng chẳng kém bất cứ quan chức Washington nào. Trong ngày hôm đó, khi nguồn cung tiền đang cạn dần, tỷ lệ lãi suất tăng cao và thị trường trượt dốc, Mitchell đã quyết định ra tay. Ông tuyên bố trước giới báo 33 chí: “Chúng tôi thấy mình có bổn phận còn quan trọng hơn bất kỳ lời cảnh báo nào của Cục Dự trữ Liên bang là xoay ngược tình trạng khủng hoảng trên thị trường tiền tệ.” Ông cho biết, National City có thể cho vay tiền trong trường hợp cần thiết để hạn chế bớt yêu cầu thanh khoản bằng tiền mặt. Họ có thể (và họ đã) vay tiền từ Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York để làm tất cả những việc Cục Dự trữ Liên bang cấm làm. Dưới vỏ bọc tài chính, Mitchell đã tung ra cú đòn từ Phố Wall theo kiểu tuyên ngôn nổi tiếng của Thị trưởng Hague “Tôi mới là luật pháp của thành phố Jersey.” Những lời Mitchell nói như có ma thuật. Cho tới cuối ngày giao dịch, tỷ lệ lãi suất đã ổn định trở lại, và thị trường đã giãn ra. Cục Dự trữ Liên bang vẫn tiếp tục im lặng, nhưng bây giờ sự im lặng của họ lại khiến người ta yên tâm. Nó đồng nghĩa với việc họ công nhận hành động của Mitchell. Ngày hôm sau, National City điều chỉnh lại cam kết của mình đối với thời kỳ bùng nổ: họ thông báo sẽ bảo hộ mức lãi suất hợp lý bằng cách đưa 25 triệu đôla vào thị trường vay nóng – 5 triệu đôla khi tỷ lệ lãi suất là 16%, và 5 triệu đôla nữa cho mỗi phần trăm tăng lên. Trong bức thư hàng tháng gửi khách hàng, ngân hàng này tự biện minh cho vị trí của mình, và tình cờ đưa ra một phát biểu đáng chú ý về tình cảnh tiến thoái lưỡng nan mà Cục Dự trữ Liên bang đang phải đối mặt (rõ ràng National City chỉ chú trọng tới những thông tin họ quan tâm). Phát biểu đó có nội dung như sau: “Ngân hàng National City nhận thức đầy đủ những nguy cơ của nạn đầu cơ thái quá và ủng hộ chủ trương của Cục Dự trữ Liên bang là hạn chế mở rộng nguồn cung tín dụng vì mục đích đầu cơ. Cùng lúc đó, ngân hàng và các doanh nghiệp nói chung, cũng như các Ngân hàng Dự trữ Liên bang… đều muốn tránh nguy cơ sụp đổ của thị trường chứng khoán bởi đó sẽ là thảm họa đối với toàn bộ nền kinh tế.” VI Mitchell không thoát khỏi những lời chỉ trích và phê bình. Trong cuộc điều tra của Thượng nghị viện, Thượng nghị sĩ Carter Glass, người ủng hộ các quy định của Cục Dự trữ Liên bang đồng thời là người quan tâm tới cơ chế hoạt động của Cục, đã tuyên bố: “Ông Mitchell đã thừa nhận rằng bổn phận của ông ta đối với thị trường chứng khoán đang điên đảo còn quan trọng hơn những gì ông ta tuyên thệ trên cương vị Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York… Vì thế, ngân hàng nên yêu cầu ông này từ chức ngay lập tức.” Việc Cục Dự trữ Liên bang chưa từng nghĩ đến một hành động như thế phần nào đã cho thấy nỗ lực gây áp lực để đạt được mục đích của Cục nằm dưới tài quản trị của một bàn tay nhu nhược. Cục Dự trữ Liên bang bị chỉ trích thậm chí còn nhiều hơn cả Mitchell. Arthur Brisbane(22) thận trọng tuyên bố: “Nếu mua bán chứng khoán là sai lầm thì Chính phủ nên đóng cửa Sàn Giao dịch Chứng khoán. Nếu không, Cục 34 Dự trữ Liên bang đừng nên xía vào.” Một bài báo khác trên tờ Barron’s của tác giả có bút danh là Seth Axley còn đưa ra nhận xét cực đoan hơn: “Vì Cục Dự trữ Liên bang từ chối các nhà đầu tư, nên các cách thức nhận diện nền kinh tế mà giờ đã được chứng minh là đúng đắn, các kỹ năng mà giờ đã được sử dụng phổ biến, và các phát minh mà giờ đã trở thành chuyện thường ngày dường như đã minh chứng cho những nghi ngờ rằng nó đã truyền tải chính xác không khí của thời đại.” So với những phản ứng ban đầu của Cục Dự trữ Liên bang như tổ chức các cuộc họp và giữ im lặng, những lời chỉ trích này quả có phần hơi nặng nề. Nhưng nó vẫn chẳng thấm vào đâu so với lời lẽ của một học giả trẻ của trường Princeton, người nổi lên vào thời điểm đó với cương vị người bảo vệ mạnh mẽ nhất của Phố Wall. Cuốn sách Wall Street and Washington (Phố Wall và Washington) của Joseph Stagg Lawrence khi mới ra mắt trong năm đó đã được một tạp chí tài chính đầu ngành đánh giá là “một luồng khí mới”. Trong cuốn sách đáng chú ý này, Lawrence cho rằng nguyên nhân gây ra mối lo ngại của Cục Dự trữ Liên bang đối với hoạt động của Phố Wall chính là thành kiến – thành kiến này “được gây dựng trên cái nền của sự xung đột lợi ích và mối ác cảm cả về tình và lý giữa một bên là giới giàu có, lịch lãm và bảo thủ đã an cư lạc nghiệp tại miền ven biển (trong đó có Phố Wall) và một bên là cộng đồng những người sống trong nghèo đói, mù chữ và có tư tưởng cực đoan tại khu vực đất liền.” Ông Lawrence lịch lãm và bảo thủ cũng đưa ra những lời chỉ trích nặng nề đối với phe bảo vệ Cục Dự trữ Liên bang trong Thượng nghị viện, mà kỳ lạ thay, thượng nghị sĩ “miền ven biển” của bang Virginia là Carter Glass cũng nằm trong số đó. “Không thể tin được! Vào năm 1929 Sau công nguyên này, một bộ máy gồm toàn những người được coi là sáng suốt lại cho phép những kẻ cuồng tín, ngu dốt và chậm tiến ngang nhiên hành động. Ấy vậy mà đây lại chính là những gì đang xảy ra… Khi vị Thượng nghị sĩ từ Old Dominion (tên gọi khác của Virginia) xuất hiện trong căn phòng đầy những kẻ ngu xuẩn được coi là một hội đồng biết tính toán ấy, thì những lời nhận xét của ông ta chẳng dựa trên lý lẽ gì cũng như chẳng chịu sự hạn chế nào. Niềm tin mù quáng vào những gì xuất hiện trước mắt và lối suy nghĩ tỉnh lẻ thất thường đã hợp sức phá hoại một cộng đồng vô tội.” Chắc hẳn, những thành viên máu lạnh của Phố Wall sẽ rất ngạc nhiên nếu biết cụm từ “cộng đồng vô tội” này chính là để ám chỉ họ. VII Sau khi bại trận dưới tay Mitchell vào tháng 3, Cục Dự trữ Liên bang rút lui khỏi chiến trường. Mối lo ngại về những gì họ có thể làm vẫn còn lẩn khuất. Tháng 4, William Crapo Durant dường như đã có chuyến thăm bí mật tới Nhà Trắng để cảnh báo Tổng thống Hoover rằng nếu không kịp thời tác động đến 35 Cục, khủng hoảng lớn sẽ xảy ra. Tổng thống không mấy quan tâm đến lời cảnh báo này, và người ta đồn rằng Durant đã cắt giảm số cổ phần của mình trước khi lên đường sang châu Âu. Tháng 6, từ Đại học Princeton, Lawrence tiếp tục chỉ trích Cục vẫn đang “làm tất cả những gì có thể để phá bĩnh tiến trình phát triển của sự phồn thịnh”. Ông này cảnh báo Cục rằng họ đã “làm dấy lên lòng hận thù của một cộng đồng trung thực, sáng suốt và hết lòng vì nhân dân”. (Cộng đồng này cũng nhằm ám chỉ Phố Wall.) Nhưng thực ra, Cục đã quyết định phó mặc cái cộng đồng trung thực, sáng suốt và hết lòng vì nhân dân cho những công cụ của nó. Như Giám đốc Young phát biểu sau đó, Cục nhận ra rằng “tuy [Cục] có thể hạn chế phần nào sự rối loạn”, nhưng cộng đồng này phải tự lo cho mình, và các Ngân hàng Dự trữ sẽ chỉ ra tay trước “cú trượt dốc không tránh nổi”. Chính xác hơn, các quan chức của Cục đã quyết định từ chối trách nhiệm đối với sự đổ vỡ đang tiến gần. Đến tháng 8, cuối cùng, Cục cũng thông qua quyết định tăng tỷ lệ tái chiết khấu lên 6%. Thị trường chỉ yếu đi một ngày rồi lại hồi phục. Mọi hậu quả có thể tính trước của hành động này đã bị vô hiệu hóa bởi việc song song nới lỏng mức giá mua thương phiếu. Trên thực tế, ngay từ cuối tháng 3 trở đi, thị trường đã không còn gì để lo sợ trước nhà cầm quyền. Tổng thống Hoover đã cử Henry M. Robinson, Giám đốc Ngân hàng Los Angeles làm đặc phái viên tại New York trong cuộc họp bàn về thời kỳ bùng nổ với các giám đốc ngân hàng khác. Theo Tổng thống Hoover, trong cuộc họp đó, Robinson đã được các ngân hàng đảm bảo rằng mọi thứ đều ổn thỏa. Richard Whitney, Phó Chủ tịch Sàn Giao dịch, cũng được gọi vào Nhà trắng và được thông báo rằng cần làm một điều gì đó để giải quyết nạn đầu cơ. Nhưng, không có hành động nào diễn ra, và Tổng thống Hoover phải tự an ủi mình bằng suy nghĩ cho rằng trách nhiệm chính trong việc điều hành thị trường chứng khoán nằm trên vai Thống đốc New York Franklin D. Roosevelt. Roosevelt cũng đang đi theo chính sách thị trường tự do, ít nhất là đối với các vấn đề liên quan đến thị trường chứng khoán. Một công ty tư vấn đầu tư tại Boston có tên gọi McNeel’a Financial Services, tự miêu tả mình là “Nhà quý tộc của những nhà đầu tư thành công”, và quảng bá một cuốn cẩm nang đầu tư mới ra mắt với cái tít: “Anh ấy kiếm được 70.000 đôla sau khi đọc cuốn Beating the Stock Market (Đánh bại thị trường chứng khoán.)” Rõ ràng có người đã làm được điều này. Nhưng người đó hòan tòan có thể kiếm được từng ấy tiền dù không hề đọc cuốn sách này hay thậm chí không biết đọc. Tại thời điểm đó, sau khi thoát khỏi nguy cơ gặp phải sự phản ứng của chính phủ hay bất cứ sự báo ứng nào, thị trường đã giương buồm lướt sóng đại dương. Đặc biệt sau ngày 1 tháng 6, mọi sự chần chừ đều tan biến. Chưa bao giờ, kể cả sau này, có nhiều người lại trở nên giàu có dễ dàng và nhanh chóng đến vậy. 36 Có lẽ Hoover, Mellon và Cục Dự trữ Liên bang đã đúng khi ngừng can thiệp vào thị trường. Có lẽ việc chịu nghèo đói trong một thời gian dài cũng là xứng đáng để được “phất lên” dù chỉ trong giây lát. Chú thích (20) Daniel Richard Crissinger (1860 – 1942): Chủ tịch FED từ năm 1923 đến 1927 - ND. (21) Warren Gamaliel Harding (1865 – 1923): Tổng thống Hoa Kỳ thứ 29 - ND. (22) Arthur Brisbane (1864-1936): được đánh giá là một trong những tổng biên tập báo của Mỹ nổi tiếng nhất thế kỷ XX - ND. 37 CHƯƠNG III Chúng ta tin tưởng vào Goldman, Sachs Đầu năm 1929, những vấn đề khó hiểu trong chính sách của Cục Dự trữ Liên bang không chỉ là câu hỏi duy nhất khiến giới trí thức Phố Wall đau đầu. Người ta còn lo ngại nước Mỹ có thể bị cạn kiệt cổ phiếu thường. Một trong những lý do khiến giá cổ phiếu cao đến vậy được lý giải là vì số lượng cổ phiếu không đủ để xoay vòng, và do đó, cổ phiếu trở thành “hàng hóa khan hiếm”. Một số cổ phiếu mới phát hành trở nên sốt tới độ người ta sợ rằng chúng sẽ nhanh chóng bị rút khỏi thị trường và không bao giờ xuất hiện trở lại dù ở bất kỳ mức giá nào. Nếu thật sự cổ phiếu thường khan hiếm đến vậy, hiện tượng này sẽ vẫn xảy ra dù cung có xuất sắc đáp ứng được cầu như bao lần trong lịch sử của mối quan hệ cung cầu muôn thủa này. Chắc chắn, đặc trưng nổi bật nhất của kỷ nguyên tài chính đã đi đến hồi kết vào mùa thu năm 1929 là cơn sốt mua cổ phiếu và tác động của nó đối với giá trị. Sự tăng lên chóng mặt của số lượng cổ phiếu mua vào cũng không kém phần nổi bật. Ngoài ra, sự khéo léo cũng như sốt sắng của các công ty khi bán cổ phiếu cũng rất đáng chú ý. Không phải tất cả những đợt gia tăng số lượng cổ phiếu vào năm 1928 và 1929 đều nhắm đến mục đích duy nhất là phục vụ các nhà đầu cơ. Thời gian này cũng là thời điểm thuận lợi để huy động tiền đầu tư phục vụ cho các mục đích của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư có thể cung cấp vốn với số lượng lớn mà không cần suy tính đến những câu hỏi dài dòng, nhiêu khê. (Seaboard Air Line là đối tượng đầu cơ được yêu thích của giai đoạn này bởi rất nhiều người lầm tưởng đây là cổ phiếu hàng không có nhiều tiềm năng tăng trưởng(23).) Trong giai đoạn thịnh vượng này, những người tin vào một tương lai phồn thịnh hơn cũng nhận thức được tầm quan trọng của việc trang bị đầy đủ cho nhà máy và vốn luân chuyển. Đây không phải là lúc để keo kiệt. Đây cũng là thời đại của liên doanh liên kết, và mỗi công ty sáp nhập mới chắc chắn sẽ lại cần đến nguồn vốn và những đợt phát hành cổ phiếu mới. Nhưng có một điều về hoạt động sáp nhập của những năm 1920 mà chúng ta nên biết. Đây không phải lần đầu tiên hoạt động sáp nhập diễn ra, nhưng xét trên nhiều góc độ, việc sáp nhập theo hình thức này là lần đầu. Ngay trước và sau thời điểm chuyển giao thế kỷ, các công ty nhỏ đã tiến hành hợp nhất thành các công ty lớn hơn. Tập đoàn Thép Hoa Kỳ (U.S Steel), International Harvester, International Nickel, American Tobacco và rất nhiều tập đoàn lớn khác đều được hình thành trong giai đoạn hợp nhất này. Trong những trường hợp đó, 38 các công ty được hợp nhất sản xuất các sản phẩm giống hoặc tương tự nhau cho một thị trường nội địa chung. Động cơ ban đầu của đa số các trường hợp sáp nhập là giảm thiểu, xóa tan, hoặc điều tiết cạnh tranh. Mỗi người khổng lồ thâu tóm một ngành công nghiệp, vì thế, họ nắm quyền kiểm soát giá, sản lượng, và có lẽ cả việc đầu tư và tỷ lệ sáng tạo công nghệ. Thập niên 1920 đã chứng kiến nhiều cuộc hợp nhất. Tuy nhiên, đối tượng của phần lớn các cuộc sáp nhập thời kỳ này lại không phải là các công ty cạnh tranh nhau, mà là các công ty chung lĩnh vực hoạt động nhưng nằm ở các khu vực khác nhau. Các công ty điện, ga, nước, xe buýt và sữa của các địa phương liên kết lại với nhau, hình thành một hệ thống toàn quốc hoặc toàn vùng. Mục đích của liên doanh liên kết không phải là triệt tiêu cạnh tranh, mà là triệt tiêu sự kém cỏi, tính mộng du, chất phác và thậm chí cả tính liêm khiết không cần thiết của đội ngũ điều hành địa phương. Vào những năm 1920, một công dân thành thị ở New York hay Chicago có thể tự hào rằng anh ta là thiên tài về tài chính, nhưng các tay quản lý và chủ doanh nghiệp ở địa phương thì không. Người ta chẳng cần phải vờ khiêm tốn khi nói về những ưu điểm của việc thay thế tầng lớp quản lý quê mùa bằng một ban quản lý chủ chốt gồm toàn những tinh hoa lãnh đạo. Trong trường hợp của các ngành dịch vụ, công cụ để đạt được sự quản lý và kiểm soát tập trung là công ty mẹ. Các công ty mẹ sẽ mua quyền kiểm soát của các công ty kinh doanh. Cũng có lúc, họ mua lại quyền kiểm soát của các công ty mẹ khác, và các công ty mẹ này lại kiểm soát các công ty mẹ trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát các công ty kinh doanh. Ở khắp các tầng bậc quan hệ, các công ty điện, nước, xăng dầu địa phương đều thuộc quyền kiểm soát của một hệ thống công ty mẹ. Thực phẩm bán lẻ, các quầy tạp hóa, bách hóa và rạp chiếu bóng cũng phát triển theo hướng tương tự, dù không hoàn toàn như vậy. Trong trường hợp này, sở hữu cục bộ cũng nhường chỗ cho phương thức điều khiển và kiểm soát trung tâm. Tuy nhiên, công cụ của cơ chế tập trung hóa này không phải là công ty mẹ mà là chuỗi công ty. Thường thì các công ty này thiết lập chuỗi cửa hàng mới, thay vì tiếp quản các đơn vị kinh doanh hiện có. Công ty mẹ phát hành cổ phiếu để mua tài sản hoạt động, còn công ty chuỗi phát hành cổ phiếu để xây các cửa hàng và rạp chiếu bóng mới. Nếu trước năm 1929, các hệ thống dịch vụ công cộng phát triển mạnh như Associated Gas and Electric, Commonwealth and Southern, và Insull thu hút được sự chú ý của rất nhiều người, thì các chuỗi công ty là một biểu tượng của thời kỳ này. Montgomery Ward là một trong những tiêu điểm đầu cơ được ưa thích, công ty này nổi tiếng nhờ hoạt động theo hình thức là công ty chuỗi và vì vậy hứa hẹn một tương lai cực kỳ sáng lạn. Các công ty như Woolworth, American 39 Stores và nhiều công ty khác cũng có đặc điểm tương tự. Lợi ích của việc tách chuỗi và chi nhánh của các ngân hàng là rất lớn, do đó nhà nước và những luật lệ liên bang được cho là rào cản cổ hủ ngăn cản việc hợp nhất. Mục đích của hợp nhất là kết nối các ngân hàng tại các tỉnh và các thành phố nhỏ thành những hệ thống rộng khắp trên toàn vùng và toàn quốc. Đã có nhiều nỗ lực đáng kể phản ứng lại hệ thống luật, đáng chú ý nhất là từ các ngân hàng mẹ. Có một thực tế không tránh khỏi là nhiều công ty được sáng lập chỉ vì mục đích hướng sự quan tâm của công chúng vào những ngành công nghiệp đầy hứa hẹn để huy động vốn và phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu của đài phát thanh và hàng không được đánh giá là có triển vọng đặc biệt lớn. Rất nhiều công ty đã ra đời và chẳng đạt được gì ngoài cái mác “có triển vọng” như thế. Tháng 9 năm 1929, một quảng cáo trên New York Times kêu gọi mọi người chú ý tới sự xuất hiện của vô tuyến truyền hình và đưa ra những lời lẽ tiên đoán rằng “khả năng thương mại của loại hình nghệ thuật mới này sẽ thách thức trí tưởng tượng của con người”. Bằng giọng điệu ít quả quyết hơn, quảng cáo này cũng khẳng định ti vi sẽ xuất hiện trong các gia đình vào mùa thu năm đó. Tuy nhiên, về cơ bản, sự bùng nổ thị trường năm 1929 có nguồn gốc trực tiếp và gián tiếp từ các ngành công nghiệp và doanh nghiệp hiện có. Những ngành, doanh nghiệp mới, hào nhoáng, phục vụ những mục đích mới và hào nhoáng đóng vai trò khá nhỏ. Ví dụ, trong thời kỳ Bong bóng South Sea, những công ty như “Biến nước biển thành nước ngọt”, “Xây bệnh viện cho trẻ ngoài giá thú”, “Đóng tàu chống cướp biển” v.v… đều có số lượng cổ phiếu bán ra không đáng kể. II Công trình kiến trúc đầu cơ đáng kể nhất của cuối những năm 1920 và cũng là công cụ thỏa mãn vượt bậc nhu cầu cổ phiếu thường của công chúng so với các cách thức khác là các công ty hay quỹ tín thác đầu tư. Các tổ chức tín thác đầu tư không thiết lập các doanh nghiệp mới hay mở rộng các doanh nghiệp cũ. Nó chỉ sắp xếp sao cho nhà đầu tư có thể sở hữu cổ phần của các công ty cũ thông qua phương tiện trung gian là các công ty mới. Ngay cả ở Mỹ những năm 1920 cũng có giới hạn về số lượng vốn thực mà các doanh nghiệp đang hoạt động có thể sử dụng hoặc các doanh nghiệp mới có thể huy động để sử dụng. Điểm đặc biệt của tín thác đầu tư là nó tách rời hoàn toàn khối lượng cổ phiếu đang phát hành khỏi khối lượng tài sản thật hiện có. Khối lượng cổ phiếu đang lưu hành có thể lớn gấp hai, gấp ba hay nhiều hơn nữa. Quy mô của ngành bảo hiểm và khối lượng cổ phiếu ký quỹ giao dịch trên các sàn cũng theo đó mà mở rộng. Khối lượng cổ phiếu để sở hữu cũng tăng, vì các quỹ tín thác đầu tư bán ra nhiều hơn là mua vào. Số chứng khoán chênh lệch sẽ chảy vào thị trường vay nóng, địa ốc hoặc rơi vào túi của các thương gia. Thật khó 40 tưởng tượng ra một phát minh nào hợp thời hay một phương cách nào có thể dập tan nỗi lo lắng về khả năng khan hiếm cổ phiếu thường hơn thế. Ý tưởng thành lập quỹ tín thác đầu tư không phải là ý tưởng mới, dù nó thâm nhập vào Mỹ khá muộn màng. Từ những năm 1880, ở Anh và Scotland, các nhà đầu tư, phần lớn là đầu tư nhỏ, đã góp vốn mua cổ phiếu qua một công ty đầu tư. Công ty này đầu tư vào các quỹ, và một quỹ thông thường nắm giữ chứng khoán của 500 đến 1.000 công ty đang hoạt động. Kết quả là, chỉ với một vài bảng Anh, nhà đầu tư có thể dàn mỏng nguy cơ rủi ro của mình hơn nhiều so với việc tự đầu tư. Và người ta kỳ vọng rằng ban quản lý quỹ tín thác là những người có kiến thức về những công ty và cơ hội mới ở Singapore, Madras, Capetown, Argentina hay bất kể nơi nào mà các quỹ Anh quốc có thể vươn đến. Độ rủi ro thấp hơn và nguồn thông tin tốt hơn là hai yếu tố giải thích hợp lý cho những phần thưởng “khiêm tốn” mà ban quản lý các doanh nghiệp nhận được. Cho dù vấp phải một số khó khăn ban đầu, nhưng tín thác đầu tư nhanh chóng trở thành một phần không thể thiếu của diện mạo Anh quốc. Trước năm 1921, chỉ có một số công ty nhỏ ở Mỹ tồn tại với mục đích duy nhất là đầu tư vào chứng khoán của các công ty khác. Đến năm 1921, tiền lãi của các quỹ tín thác bắt đầu tăng, một phần là do ảnh hưởng từ những bài báo và tạp chí quảng bá các quỹ tín thác của Anh và Scotland. Các bài báo này nhận xét, nước Mỹ vẫn chưa bắt kịp với thời đại, và các quốc gia khác đang vượt Mỹ về mặt đổi mới tín dụng. Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ đã làm được hơn thế. Nhiều quỹ tín thác ra đời, và tới đầu năm 1927, ước tính có tới 160 quỹ tồn tại. Cũng trong năm đó, có thêm 140 quỹ nữa được thành lập. Các nhà sáng lập quỹ tín thác ở Anh thường có toàn quyền đầu tư quỹ. Ban đầu, các nhà sáng lập ở Mỹ khá rụt rè khi đưa ra những yêu cầu như vậy. Rất nhiều quỹ tín thác ban đầu chỉ là quỹ tín thác đơn thuần – trong đó, nhà đầu tư được hưởng lợi tức từ loại chứng khoán cụ thể đã được ký thác tại một công ty tín thác. Khi đó, các nhà quản lý đã nghiêm túc tuân thủ một loạt các quy định về những loại chứng khoán có thể mua vào và cách thức quản lý chúng. Nhưng phương thức hoạt động đúng đắn này mai một dần theo thời gian. Vào những năm 1920, các quỹ tín thác đã trở thành các công ty đầu tư. Các công ty tín thác đầu tư bán chứng khoán của chính mình cho công chúng – đôi khi chỉ là cổ phiếu thường, nhưng thông thường là bao gồm cả cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, trái khoán và khế ước cầm cố – và số tiền thu được sẽ được đầu tư theo sự sắp xếp của ban quản lý. Mọi khả năng can thiệp của cổ đông thường đều được loại trừ bằng hình thức chỉ bán cho các cổ đông này cổ phiếu không có quyền biểu quyết, hoặc ép các cổ đông này nhượng quyền biểu quyết cho một quỹ tín thác thuộc quyền kiểm soát của ban quản lý. 41 Suốt một thời gian dài, Sàn Giao dịch Chứng khoán New York nhìn các quỹ tín thác đầu tư với con mắt nghi ngờ; chỉ tới năm 1929, cổ phiếu của các công ty hay quỹ tín thác mới được phép niêm yết. Nhưng ngay cả lúc đó, Ban Niêm yết Chứng khoán vẫn yêu cầu các quỹ tín thác phải thông báo giá trị thị trường và giá trị sổ sách của các chứng khoán nắm giữ tại thời điểm niêm yết cho Sàn Giao dịch, sau đó, mỗi năm một lần phải cung cấp danh sách các cổ phiếu mà họ nắm giữ. Quy định này khiến phần lớn các quỹ tín thác đầu tư chỉ có thể niêm yết tại Sàn Giao dịch vỉa hè, Sàn Giao dịch Boston, Sàn Giao dịch Chicago hay sàn giao dịch của các công ty đường sắt. Ngoài tiêu chí tiện lợi, việc không phơi bày danh sách cổ phiếu được coi là cách tự vệ chính đáng. Lòng tin vào các quyết định đầu tư của các nhà quản lý là rất cao. Người ta cho rằng việc tiết lộ các cổ phiếu họ đang lựa chọn có thể châm ngòi cho một cơn sốt đối với các chứng khoán mà họ ưa chuộng. Các nhà sử học cũng đã từng ca tụng sự tuyệt vời của một công ty tín thác đầu tư trong thời kỳ Bong bóng South Sea. Đó là là công ty mang cái tên úp mở “một hoạt động kinh doanh sẽ được tiết lộ đúng lúc”. Sau đó, cổ phiếu của công ty này bán rất chạy. Theo ghi chép, các quỹ tín thác đầu tư còn có những giao dịch tuyệt vời hơn thế. Chúng tiến hành những hoạt động kinh doanh mà bản chất không bao giờ được tiết lộ, và cổ phiếu của chúng cũng bán rất chạy. III Trong năm 1928, ước tính có khoảng 186 quỹ tín thác đầu tư được thành lập. Trong những tháng đầu năm 1929, mỗi ngày có một quỹ mới ra đời, và tổng cộng có thêm 265 quỹ xuất hiện trong năm đó. Năm 1927, các quỹ tín thác đã bán ra số lượng chứng khoán trị giá khoảng 400 triệu đôla; tới năm 1929, họ tung ra thị trường khoảng 3 tỷ đôla chứng khoán. Con số này chiếm ít nhất 1/3 lượng chứng khoán phát hành năm đó; và tới mùa thu năm 1929, tổng giá trị tài sản của các quỹ tín thác đầu tư được ước tính là hơn 8 tỷ đôla. Như vậy, tài sản của các quỹ tín thác đã tăng khoảng 11 lần kể từ đầu năm 1927. Sự sinh sản đơn tính của các quỹ tín thác đầu tư khác với quá trình phát triển của một công ty thông thường. Hầu hết các quỹ tín thác đều được bảo trợ bởi một công ty khác. Năm 1929, một con số đáng kinh ngạc của đủ loại hình công ty khác nhau đổ xô thành lập quỹ tín thác. Các ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, hãng môi giới chứng khoán, sàn giao dịch chứng khoán, và đặc biệt các quỹ tín thác đầu tư khác đều bận rộn cho ra đời các quỹ tín thác mới. Các nhà bảo trợ cũng xuất hiện với đủ mọi quy mô, từ tổ chức như House of Morgan – nhà tài trợ của United and Alleghany Corporations, tới cá nhân như Chauncey D. Parker, chủ ngân hàng đầu tư ở Boston, cũng là người sáng lập ra ba quỹ tín thác năm 1929 và đã bán ra khối lượng chứng khoán trị giá 42 25 triệu đôla cho một thị trường háo hức chờ mua. Sau này, Chauncey mất gần hết số tiền thu được và rơi vào phá sản. Việc bảo trợ một quỹ tín thác không thể không có phần thưởng. Công ty bảo trợ thường ký hợp đồng quản lý với công ty con. Các điều khoản thường gặp là nhà tài trợ sẽ quản lý quỹ tín thác, tiến hành đầu tư, và nhận một khoản thù lao dưới dạng phần trăm vốn bỏ ra hoặc lợi nhuận. Nếu nhà tài trợ là một công ty giao dịch chứng khoán, họ cũng sẽ nhận được tiền hoa hồng từ hoạt động mua bán chứng khoán cho quỹ. Có rất nhiều nhà bảo trợ là các ngân hàng đầu tư, điều này có nghĩa là, các ngân hàng sẽ tự tạo ra chứng khoán mà sau đó sẽ được đưa ra thị trường. Đây là cách tuyệt vời để đảm bảo nguồn cung chính đáng. Nhưng, trên tất cả, sự hào hứng của công chúng đang săn lùng chứng khoán của quỹ tín thác đầu tư mới là phần thưởng lớn nhất. Hầu như tất cả mọi người đều sẵn sàng trả mức cao hơn so với mức giá chào bán. Công ty bảo trợ (hay công ty sáng lập quỹ) được nhận phần cổ phiếu hoặc giấy chứng nhận bán cổ phiếu ở mức giá chào bán. Ngay lập tức, họ có thể bán các cổ phiếu này để kiếm lợi nhuận. Ví dụ, một trong những quỹ tín thác có cái tên hào nhoáng là Seaboard Utilities Shares Corporation do Chauncey D. Parker – nhân vật vừa được nhắc đến ở trên, thành lập đã phát hành 1,6 triệu cổ phiếu thường với mức giá ròng được ấn định là 10,32 đôla/cổ phiếu. Tuy nhiên, đây không phải là mức giá bán cho công chúng, mà chỉ là mức giá dành cho Parker và các đồng nghiệp của ông. Sau khi nhận được số cổ phiếu chia phần, Parker và đồng nghiệp sẽ bán số chứng khoán trên cho công chúng với giá từ 11 đến 18,25 đôla và ăn chia lợi nhuận với người môi giới. Phương thức hoạt động như thế không chỉ diễn ra ở những công ty có uy tín thấp hoặc hầu như không có uy tín. J. P. Morgan and Company, tổ chức sáng lập United Corporation vào tháng 1 năm 1929, đã chào mời các đối tượng thân quen một gói cổ phần gồm một cổ phiếu thường và một cổ phiếu ưu đãi, với giá 75 đôla. Đây quả là một món hời. Một tuần sau, khi hoạt động giao dịch cổ phiếu của United Corporation bắt đầu diễn ra, giá chào bán là 92 đôla, và 94 đôla trên thị trường tự do. Chỉ 4 ngày sau, giá cổ phiếu này lên tới 99 đôla. Số cổ phiếu từng được mua vào với giá 75 đôla đã được bán ồ ạt ở những mức giá trên. Thật dễ hiểu khi những khoản lợi nhuận kếch xù này trở thành liều thuốc kích thích việc thành lập các quỹ tín thác đầu tư mới. IV Một số người lấy làm tiếc rằng lợi ích của cơ chế tài chính tiến bộ mới này chưa đến được với tất cả mọi người. Một trong những người được hưởng lợi từ việc thành lập quỹ tín thác đầu tư United Corporation là John J. Raskob. Là Chủ tịch của Ủy ban Dân chủ Quốc gia, Raskob có những cam kết chính trị về 43 việc gây dựng tình bằng hữu bền chặt với người dân. Ông tin rằng tất cả mọi người, ai cũng xứng đáng được hưởng những cơ hội mà ông đang tận hưởng. Một trong những biểu hiện của sự hào phóng này là bài báo đăng trên tờ Ladies’ Home Journal với cái tít hấp dẫn “Ai cũng phải giàu có”. Trong đó, Raskob chỉ ra rằng bất cứ ai nếu tiết kiệm 15 đôla mỗi tháng, đầu tư vào các cổ phiếu thường tốt, và không ăn tiêu vào lợi tức, sẽ thu lại được một khoản tiền là 80.000 đôla sau 20 năm. Rõ ràng, với cái đà này, sẽ có rất nhiều người trở nên giàu có. Nhưng sẽ có một khoảng dừng trong 20 năm. Hai mươi năm dường như là quãng thời gian làm giàu quá dài, đặc biệt là trong năm 1929; và với một đảng viên Đảng Dân chủ, một người bạn của mọi người, việc theo đuổi phương pháp tiệm tiến như vậy chẳng khác nào mạo hiểm đặt mình vào thế của kẻ phản động. Raskob, vì thế, có một gợi ý khác. Ông đề xuất thành lập một quỹ tín thác đầu tư đặc biệt sao cho người nghèo cũng có thể làm giàu dễ dàng như người giàu. Kế hoạch mà Raskob cho ra mắt công chúng trước thềm mùa hè năm 1929 này được vạch ra khá tỉ mỉ. (Tác giả của nó cho biết, ông đã thảo luận kế hoạch này với “các chuyên gia tài chính, kinh tế, các giáo sư, chuyên gia ngân hàng, các nhà lãnh đạo liên đoàn lao động, lãnh đạo các tập đoàn công nghiệp, và bất kỳ ai có ý tưởng dù không có tên tuổi gì”.) Một công ty sẽ được lập ra với nhiệm vụ chính là mua cổ phiếu. Ví dụ, một người vô sản chỉ với 200 đôla sẽ đóng cho công ty số tiền chắt bóp của mình, và công ty này sẽ đứng ra mua số lượng cổ phiếu với khoản tiền đỡ “còi cọc” hơn là 500 đôla. Khoản chênh lệch 300 đôla sẽ được công ty lấy từ một chi nhánh tài chính được lập ra vì mục đích này, và toàn bộ cổ phiếu sẽ trở thành tài sản thế chấp. Nhà tư bản đang chập chững bước vào thương trường sẽ phải trả khoản nợ đó ở một mức phí nào đó, ví dụ, 25 đôla/ tháng. Người này sẽ được hưởng toàn bộ lợi nhuận nếu cổ phiếu tăng giá, và đây là điều Raskob cho là chắc chắn sẽ xảy ra. Giáng đòn vào sự yếu kém của tình hình hiện tại, Raskob nói: “Ngay bây giờ, tất cả những gì một người chỉ có 200 đôla đến 500 đôla để đầu tư cần làm là mua trái phiếu Liberty…” Phản ứng của công chúng trước kế hoạch này có thể sánh ngang với phản ứng trước công thức mới và táo bạo về mối quan hệ giữa khối lượng và năng lượng. “Điều không tưởng có thật,” là những gì một bài báo đặt tên cho kế hoạch này. Một tờ báo khác mô tả nó là “Tầm nhìn vĩ đại nhất của bộ óc vĩ đại nhất Phố Wall”. Một bình luận viên mệt mỏi và bất cần cũng phải cảm động thốt lên rằng kế hoạch này giống với “nghệ thuật quản lý tài chính của nhà lãnh đạo hơn bất cứ thứ gì Phố Wall mang lại sau một thời gian dài”. 44 Nếu có thêm thời gian, chắc chắn kế hoạch của Raskob sẽ đơm hoa kết trái. Tất cả đều háo hức đón mừng sự thông minh và sáng suốt của những người như ông. Điều này được minh chứng bằng việc mọi người sẵn sàng trả tiền cho thần đồng tài chính chuyên nghiệp. V Thước đo lòng ngưỡng mộ đối với tài năng của một thần đồng tài chính trong lĩnh vực này là mối quan hệ giữa giá trị thị trường của các chứng khoán đang lưu hành đại diện cho quỹ tín thác đầu tư và giá trị của các chứng khoán mà các quỹ này sở hữu. Thông thường, chứng khoán đại diện cho quỹ thường có giá trị cao hơn tài sản mà nó sở hữu. Có lúc, giá trị của chứng khoán đại diện cao gấp hai lần chứng khoán sở hữu. Điểm này không có gì khó hiểu. Tài sản của quỹ tín thác đầu tư chỉ bao gồm các cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, trái khoán, khế ước cầm cố, trái phiếu và tất cả tiền mặt mà nó sở hữu. (Thông thường, các quỹ tín thác đầu tư không có văn phòng hay trang thiết bị văn phòng; công ty tài trợ điều hành quỹ tín thác đầu tư từ chính trụ sở của mình.) Tuy thế, nếu tất cả số chứng khoán này được bán ra trên thị trường, doanh thu sẽ luôn luôn thấp hơn, và thường thì thấp hơn rất nhiều so với giá trị hiện tại của các chứng khoán đang lưu hành đại diện cho công ty đầu tư. Chứng khoán đại diện rõ ràng có giá trị lớn hơn nhiều tài sản mà chúng đại diện. Tiền phí, trên thực tế, là giá trị mà cộng đồng người hâm mộ đặt cho kiến thức, kỹ năng và khả năng thao túng điều tiết tài chính chuyên nghiệp. Đánh giá một danh mục đầu tư chứng khoán là “theo giá thị trường” tức là phải coi nó như một tài sản trì trệ. Nhưng khi là tài sản của một quỹ tín thác đầu tư, nó có giá trị hơn thế rất nhiều, vì danh mục đầu tư khi đó sẽ được kết hợp với một thành phần rất quý giá là thần đồng tài chính. Quỹ tín thác đầu tư với những khả năng đặc biệt như vậy có thể vạch ra cả một chiến lược mới để tăng giá trị chứng khoán. Nó có thể hợp sức tham gia vào các quỹ chung với khối thị trường chung và các xanhđica để đẩy giá trị lên nữa. Nó biết khi nào các quỹ tín thác đầu tư khác hành động tương tự và có thể hòa theo. Nhưng quan trọng hơn cả, một thần đồng tài chính là người “biết tuốt”. Vì thế, quỹ tín thác đầu tư có thể bước vào cái mà ông Lawrence của trường Princeton gọi là “giai đoạn tập trung vào những quyết định có đầy đủ thông tin và sáng suốt nhất về giá trị của những doanh nghiệp phục vụ nhu cầu của nhân loại”. Người ta có thể thu lợi bằng cách đầu tư trực tiếp vào Radio, J. I. Case, hay Montgomery Ward, nhưng sẽ là an toàn và sáng suốt hơn nhiều nếu lợi nhuận đầu tư được đem lại bởi những con người với tri thức nổi trội và sự thông thái. Cho tới năm 1929, các quỹ tín thác đầu tư đều ý thức được sức mạnh của tri thức cũng như tầm quan trọng của nó, và không để lỡ bất kỳ cơ hội nào củng cố nó. Mời được một nhà kinh tế học tư vấn riêng là một trong những cơ 45 hội đó, và theo thời gian, dần dần xuất hiện sự cạnh tranh của những người có uy tín và chất xám tương xứng với vai trò này. Đó là thời vàng son của các giáo sư kinh tế. Chủ tịch của The American Founders Group, một nhóm quỹ tín thác đầu tư sáng giá, là Giáo sư Edwin W. Kemerer, chuyên gia tiền tệ nổi tiếng của Princeton và thành viên ban cố vấn là Tiến sĩ Rufus Tucker, cũng là một nhân vật được nhiều người biết tới. (Lời nhận xét các nhà kinh tế học trên vẫn chưa phát huy tối đa khả năng phán đoán của họ có lẽ được rút ra từ lịch sử hoạt động sau này của nhóm. Cuối năm 1935, United Founders, quỹ lớn nhất của nhóm, đã phải chịu một đợt tổn thất giá trị tài sản lên tới 301.385.504 đôla. Khi đó, cổ phiếu của quỹ này trượt dốc từ mức trên 75 đôla vào năm 1929 xuống chỉ còn chưa đến 75 xu.) Một tổ hợp quỹ đầu tư nổi tiếng khác đã mời được David Friday, vị tiến sĩ nổi tiếng uyên bác và tài dự đoán của Đại học Michigan làm cố vấn. Một quỹ tín thác ở Michigan cũng mời được ba vị giáo sư – Irving Fisher của Yale, Joseph S. Davis của Stanford, và Edmund E. Day của Michigan vào ban tư vấn chính sách. Điểm nổi bật của quỹ này không chỉ là sự đa dạng của tổ hợp đầu tư, mà còn sự đa dạng của cả ban cố vấn. Nó được bảo vệ hoàn toàn trước tác động của bất kỳ quan điểm thị trường nào đến từ Yale, Stanford hay Michigan. Các quỹ khác cũng chú trọng tới yếu tố nhân tài theo nhiều góc độ khác nhau. Chính vì lẽ đó, một quỹ tín thác đã tự nhận xét rằng, với danh mục đầu tư gồm 120 cổ phiếu của các tập đoàn, nó được hưởng lợi từ “hiệu quả làm việc của chủ tịch, công chức và ban giám đốc của tất cả các tập đoàn [mà nó sở hữu]”. Quỹ này nhấn mạnh thêm “đồng minh thân thiết của các tập đoàn này là các ngân hàng lớn”. Sau đó, bằng một bước nhảy xa, đầy lý trí, nó đưa ra kết luận: “Vì thế, quỹ đã huy động được trí tuệ kinh doanh của quốc gia trên diện rộng.” Một quỹ khác, dù ít nghiêng về phương pháp suy luận, nhưng cũng tự bằng lòng với bản thân bằng cách tuyên bố: “đầu tư là một môn khoa học chứ không phải công việc cá nhân đơn lẻ”. Khi năm 1929 dần trôi qua, có một điều hiển nhiên là ngày càng nhiều nhà đầu tư mới trên thị trường dựa vào tài trí và hệ thống kiến thức của các quỹ. Tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là họ vẫn vấp phải khó khăn trong việc phân biệt quỹ tốt và quỹ xấu. Người ta vẫn nhận ra (dù là hiếm khi) sự tồn tại của những quỹ xấu. Trong một bài báo trên tạp chí The Atlantic Monthly, Paul C. Cabot viết, sự thiếu trung thực, lơ là, năng lực yếu kém và lòng tham là những hạn chế thông thường của ngành công nghiệp mới này. Đó là những nhược điểm lớn, và với tư cách là nhà tổ chức và quản lý của một quỹ tín thác đầu tư đầy hứa hẹn có tên State Street Investment Corporation, tiếng nói của ông Cabot nghiễm nhiên trở nên rất có trọng lượng. Tuy nhiên, dư luận phản ứng 46 rất yếu ớt trước những lời cảnh báo như thế. Và những lời cảnh báo cũng rất hiếm khi xuất hiện. VI Kiến thức, khả năng điều tiết hay mẹo kiểm soát tài chính không chỉ là những ngón nghề duy nhất của quỹ tín thác đầu tư. Chúng ta còn có thể kể ra đây hình thức đầu cơ vay nợ. Cho tới mùa hè năm 1929, người ta không còn nói nhiều về các quỹ tín thác đầu tư nữa. Chủ đề chính giờ là các quỹ tín thác đầu cơ vay nợ cao, quỹ đầu cơ vay nợ thấp, hoặc các quỹ không cho đầu cơ vay nợ. Nguyên tắc của đầu cơ vay nợ đối với quỹ tín thác đầu tư giống hệt như nguyên tắc trong trò chơi dọa nạt. Bằng cách áp dụng những định luật vật lý nổi tiếng, một cử động dù rất nhỏ tại điểm xuất phát cũng có thể tạo thành cú nảy lớn tại vùng ngoại biên. Việc đầu cơ vay nợ của một quỹ tín thác đầu tư được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi, cũng như cổ phiếu thường để mua một danh mục đầu tư gồm toàn bộ là cổ phiếu thường. Khi giá trị của số cổ phiếu thường mua vào tăng lên – đây là xu thế được giả định phổ biến – giá trị trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi của quỹ hầu như không bị ảnh hưởng gì. Những chứng khoán này có giá trị cố định được tính toán theo một tỷ lệ thu nhập cụ thể. Phần lớn lợi nhuận từ việc tăng giá trị của tổ hợp đầu tư đều tập trung vào cổ phiếu thường, và các cổ phiếu này tăng chóng mặt. Xin được minh họa bằng trường hợp của một quỹ tín thác đầu tư vào đầu năm 1929 với số vốn là 150 triệu đôla – một quy mô khá hợp lý vào thời điểm đó. Giả sử 1/3 số vốn đó là doanh thu từ trái phiếu, 1/3 từ cổ phiếu ưu đãi, và phần còn lại từ cổ phiếu thường. Nếu đầu tư số vốn 150 triệu đôla này, và nếu lượng chứng khoán mua vào tăng giá ở mức ổn định, đến mùa hè năm đó, giá trị của danh mục đầu tư này sẽ tăng thêm khoảng 50%. Tổng giá trị tài sản sẽ lên tới 225 triệu đôla. Các trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi sẽ vẫn chỉ đáng giá 100 triệu đôla, doanh thu của chúng không tăng lên, và chúng mang lại nhiều cổ phần lớn hơn trong trường hợp giả định là công ty phải thanh lý tài sản. Vì thế, 125 triệu đôla còn lại sẽ nằm trong giá trị cổ phiếu thường của quỹ, bởi nó đã tăng từ 50 triệu đôla lên 125 triệu đôla, tức 150%, và làm tăng tổng giá trị của toàn bộ tài sản lên 50%. Đây chính là phép màu trong đầu cơ vay nợ, nhưng nó không chỉ dừng lại ở đó. Nếu số cổ phiếu thường này nằm trong tay của một quỹ đầu cơ sử dụng hình thức đầu cơ vay nợ, rất có thể giá trị của nó sẽ tăng từ 700 tới 800% từ mức tăng 50% ban đầu. Và cứ như thế. Trong năm 1929, việc khám phá ra những tính chất tuyệt vời của chuỗi hình học đã khiến cả Phố Wall sửng sốt ngang với khi phát minh bánh xe ra đời. Đâu đâu cũng có cơn sốt thành lập các quỹ tín thác, và các quỹ tín thác lại tiếp tục đỡ đầu cho các quỹ tín thác khác, và 47 đến lượt mình, các quỹ này lại bảo trợ các quỹ tín thác khác nữa. Không chỉ dừng lại đó, hình thức đầu cơ vay nợ đã khiến nhân vật đứng đằng sau tất cả các quỹ này gần như không phải bỏ ra một xu nào. Khi người bảo trợ thành lập một quỹ tín thác và giữ lại cổ phần là cổ phiếu thường, số vốn thu về từ đầu cơ vay nợ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập quỹ thứ hai, và quỹ thứ hai này sau đó sẽ bổ sung lợi nhuận và cho ra đời một quỹ thứ ba còn lớn hơn thế. Vì vậy, một trong những nhân vật cổ súy tích cực cho hình thức đầu cơ vay nợ là Harrison Williams, người được Ủy ban Hối đoái và Chứng khoán đánh giá là có ảnh hưởng lớn tới một hệ thống kết hợp quỹ tín thác đầu tư và công ty mẹ có giá thị trường vào năm 1929 là gần 1 tỷ đôla. Đây là thành quả được gây dựng từ hoạt động điều hành của ông tại một công ty nhỏ có tên là Central States Electric Corporation chỉ đáng giá khoảng 6 triệu đôla vào năm 1921. Đầu cơ vay nợ cũng là yếu tố vàng tạo nên đà tăng trưởng đáng chú ý của American Founders Group. Thành viên gốc của tổ hợp quỹ tín thác đầu tư tiếng tăm này ra đời năm 1921. Nhà sáng lập không may đã không thể phát triển kinh doanh vì bản thân ông bị phá sản. Tuy nhiên, một năm sau đó, một người bạn đã đóng góp 500 đôla. Chỉ với số vốn khiêm tốn đó, một quỹ thứ hai ra đời, hai công ty bắt đầu khởi nghiệp. Được công chúng ưu ái đón nhận, tới năm 1927, hai công ty gốc và một công ty thứ ba được thành lập sau đó đã bán cho thị trường khối lượng chứng khoán có giá trị lên đến 70-80 triệu đôla. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Năm 1928 và 1929, một chuỗi sự kiện ập đến Founders Group. Cổ phiếu được bán ra với tốc độ kinh hoàng. Các công ty mới với những cái tên mới được thành lập để bán nhiều cổ phiếu hơn nữa, và tới năm 1929, đã có tới 30 công ty như thế trong nhóm này. Tại thời điểm đó, công ty lớn nhất là United Founders of Corporation có tài sản vào khoảng 686.165.000 đôla. Tổng tài sản của cả nhóm có giá thị trường lên tới hơn 1 tỷ đôla. Đây có lẽ là con số lớn nhất từng được sản sinh từ số vốn gốc là 500 đô-la. Trong 1 tỉ đó, khoảng 320 triệu đô-la là của các công ty mẹ trong nội bộ công ty. Sự loạn luân tài chính này chính là công cụ duy trì kiểm soát và tận hưởng những lợi ích mà đầu cơ vay nợ mang lại. Nhờ vào chuỗi dài của những cổ phiếu của một công ty trong một công ty khác, việc tăng giá trị vào năm 1928 và 1929 được tập trung hữu hiệu vào giá trị cổ phiếu thường của công ty gốc. Đầu cơ vay nợ về sau phát triển theo cả hai hướng. Không phải tất cả các chứng khoán do Founders nắm giữ đều thuộc dạng tăng vĩnh viễn, ít nhiều có khả năng chống lại khủng hoảng. Vài năm sau người ta phát hiện ra tổ hợp đầu tư do Founders sở hữu có 5.000 cổ phiếu của Kreuger and Toll, 20.000 cổ phần của Kolo Production Corporation, và một công ty mới đầy mạo hiểm khác chuyên sản xuất xà phòng từ dầu chuối, và 295.000 trái phiếu của Vương 48 quốc Yugoslavia. Khi giá trị của Kreuger and Toll tiến dần về 0, hình thức đầu cơ vay nợ vẫn được áp dụng, chỉ có điều chuỗi hình học giờ lại hoạt động theo chiều ngược lại. Nhưng đầu năm 1929, yếu tố toán học trong đầu cơ vay nợ vẫn chưa được tiết lộ, và trong năm đáng nhớ đó, chắc chắn lúc đầu, mọi người chỉ dồn sự chú ý vào sự ra đời của tổ hợp tín thác đầu tư lớn nhất, tổ hợp đầu tư của Goldman, Sachs. VII Goldman, Sachs and Company, một hiệp hội ngân hàng đầu tư và môi giới, xuất hiện khá muộn trong thế giới kinh doanh tín thác đầu tư. Chỉ đến ngày 4 tháng 12 năm 1928, gần một năm sau khi thị trường chứng khoán bị cuốn vào cơn lốc, họ mới thành lập Goldman Sachs Trading Corporation. Tuy nhiên, trong lịch sử, hiếm có một doanh nghiệp nào phát triển mạnh mẽ như Goldman Sachs Trading và các hậu duệ của nó. Trong lần phát hành đầu tiên, Trading Corporation đã tung ra 1 triệu cổ phiếu, và tất cả số đó được Goldman, Sachs and Company mua với giá 100 đôla một cổ phiếu với tổng số tiền đầu tư lên đến 100 triệu đô-la. Phần lớn số cổ phiếu được bán ra thị trường với giá 104 đô-la. Không có trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi, và khi đó, đầu cơ vay nợ vẫn chưa được Goldman, Sachs and Company khám phá ra. Việc quản lý Goldman Sachs Trading Corporation vẫn nằm trong tay Goldman, Sachs and Company qua hợp đồng quản lý và sự hiện diện của các vị lãnh đạo tập đoàn trong Ban quản lý của Trading Corporation. Hai tháng sau khi thành lập, công ty mới này bán ra thị trường số lượng cổ phiếu nhiều hơn. Ngày 21 tháng 2, nó sáp nhập với một quỹ tín thác đầu tư khác là Financial and Industry Securities Corporation. Tổng tài sản của công ty mới này có giá trị 235 tỷ đô-la, phản ánh thặng dư 100% chỉ trong vòng chưa đầy ba tháng. Trước đó, ngày 2 tháng 2, hai tuần trước khi sáp nhập, cổ phiếu được bán ra với giá 136,5 đô-la, tăng từ mức giá ban đầu là 104 đô-la. Năm ngày sau, ngày 7 tháng 2, giá cổ phiếu này nhảy vọt lên 222,5 đô-la. Như vậy, giá trị của cổ phiếu này đã lớn gần gấp đôi tổng giá trị chứng khoán, tiền mặt và các tài sản khác do Trading Corporation sở hữu. Mức giá ấn tượng này không phải hoàn toàn là do sự phấn khích của công chúng trước khả năng tài chính của Goldman, Sachs. Ngay bản thân Goldman, Sachs cũng rất “nhiệt tình”, cộng thêm việc Trading Corporation mạnh tay mua vào chứng khoán của chính mình. Cho tới ngày 14 tháng 3, Trading Corporation đã mua 560.724 đô-la cổ phần của chính mình với tổng số vốn là 57.021.936. Nhờ thế, giá trị của cổ phiếu đã tăng mạnh. Tuy nhiên, có lẽ do nhìn trước được những điểm bất hợp lý của một công ty đầu tư dốc toàn bộ vốn vào cổ phiếu thường của chính mình, tháng 3 năm đó, Trading 49 Corporation đã ngừng tự mua vào. Sau đó, công ty bán lại một phần cổ phiếu cho William Crapo Durant, và ông này bán ra thị trường khi có cơ hội. Mùa xuân và đầu mùa hè là quãng thời gian khá im hơi lặng tiếng của Goldman, Sachs, nhưng đó là quãng thời gian chuẩn bị. Ngày 26 tháng 7, họ đã sẵn sàng. Ngày hôm đó, Trading Corporation, cùng Harrison Williams, cho ra mắt Shenandoah Corporation, quỹ đầu tiên trong số hai quỹ tín thác đầu tư đáng chú ý. Lần đầu tiên Shenandoah phát hành khối lượng chứng khoán có giá trị 102.500.000 đô-la (lần thứ hai diễn ra vài tháng sau đó) và người ta cho rằng nó đã đăng ký cao gấp 7 lần số cổ phiếu hiện có. Cả trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi đều được tung ra, bởi giờ đây Goldman, Sachs đã biết đến ưu điểm của đầu cơ vay nợ. Trong số 5 triệu cổ phần của cổ phiếu thường trong lần phát hành đầu tiên, 2 triệu cổ phần được Trading Corporation mua lại, và 2 triệu nữa là do Central States Electric Corporation mua đại diện cho người bảo trợ của mình là Harrison Williams. Wiliiams là thành viên của ban điều hành quỹ cùng các đối tác trong Goldman, Sachs. Một thành viên khác trong ban này là một luật sư nổi tiếng tại New York, người mà sự lạc quan của tuổi trẻ có thể gạt đi tính kỳ thị trong trường hợp này. Đó là John Foster Dulles. Cổ phiếu của Shenandoah được phát hành với giá 17,5 đô-la. Một vài hoạt động giao dịch nhanh chóng diễn ra trên cơ sở “khi phát hành”. Nó mở cửa ở mức 30 đô-la, vươn tới 36 đô-la, và đóng cửa ở mức này. Như vậy, cổ phiếu của Shenandoah đã cao hơn mức giá phát hành tới 18,5 điểm. (Cuối năm đó, giá cổ phiếu này xuống còn 8 đô-la. Sau đó, nó chạm đáy ở mức 50 xu.) Trong khi Shenandoah thắng lớn trên thị trường, Goldman, Sachs cũng chuẩn bị lần cống nạp thứ hai cho vùng nông thôn của Thomas Jefferson, nhà tiên tri của các công ty nhỏ và đơn giản. Ngày 20 tháng 8, một công ty lớn hơn với cái tên Blue Ridge Corporation ra đời. Blue Ridge có số vốn 142 triệu đô-la, và một điều rất đáng bàn là nó được bảo trợ bởi Shenandoah, người “đỡ đầu” mới được chính xác 25 ngày tuổi. Ban giám đốc của Blue Ridge cũng là ban giám đốc của Shenandoah; và trong số 7.250.000 cổ phần của nó (bao gồm một phần đáng kể các cổ phiếu ưu đãi) Shenandoah chiếm tới 6.250.000. Goldman, Sachs giờ đây đã áp dụng đầu cơ vay nợ ráo riết như để trả thù. Một đặc điểm thú vị của Blue Ridge là nó cho phép nhà đầu tư đổi trực tiếp các chứng khoán thường để lấy cổ phiếu ưu đãi và thường của tập đoàn mới. Một cổ đông của American Telephone and Telegraph Company có thể nhận được 470/715 cổ phiếu ưu đãi và thường của Blue Ridge cho mỗi cổ phiếu của Telephone. Đặc quyền trên cũng được mở rộng cho cả Allied Chemical và Dye, Santa Fe, Eastman Kodak, General Electrics, Standard Oil of New Jersey, và khoảng 15 cổ phiếu khác. Các nhà đầu tư đã hưởng ứng đề nghị này rất nhiệt tình. 50 Ngày 20 tháng 8, ngày Blue Ridge ra đời, là ngày thứ 3, nhưng Goldman, Sachs có nhiều việc phải làm hơn vào tuần đó. Thứ 5, Goldman Sachs Trading Corporation thông báo về việc mua lại Pacific American Associates, một quỹ tín thác đầu tư ở vùng bờ biển phía Tây vừa mới mua một số quỹ tín thác đầu tư khác và đồng thời nắm quyền sở hữu American Trust Company, một ngân hàng thương mại lớn có chi nhánh khắp California. Pacific American có số vốn là khoảng 100 triệu. Để chuẩn bị cho việc sáp nhập, Trading Corporation đã phát hành thêm 71.400.000 cổ phiếu để đổi lấy cổ phiếu vốn của American Company, công ty mẹ sở hữu hơn 99% lượng cổ phiếu thường của American Trust Company. Sau khi phát hành lượng chứng khoán trị giá hơn 1/4 tỷ đô-la chỉ trong vòng chưa tới một tháng – một hoạt động không phải là không gây ấn tượng với Bộ Tài chính Mỹ – giao dịch của Goldman, Sachs có phần chững lại. Các thành viên của nó không phải là những người duy nhất bận rộn vào thời điểm đó. Những ngày tháng 8 và 9 năm đó thật ảm đạm khi không có quỹ mới nào ra đời và các quỹ cũ cũng không chào bán lượng cổ phiếu nào đáng kể. Vì thế, ngày 1 tháng 8, các báo đồng loạt đăng thông cáo về việc thành lập AngloAmerican Shares, Inc., một công ty với ban giám đốc gồm Marquess của Carisbrooke, GCB, GCVO; và Colonel, ông chủ của Sempill, AFC, ngoài ra ông này còn được biết tới với cương vị Chủ tịch Royal Aeronautical Society, London. American Insuranstocks Corporation cũng ra đời ngày hôm đó, dù khoe khoang một giám đốc chẳng hề oai phong hơn William Gibbs McAdoo. Những ngày sau đó là sự xuất hiện của Gude Winmill Trading Corporation, National Republic Investment Trust, Insull Utility Investments, Inc., International Carriers, Ltd., Tri-Continential Allied Corporation, và Solvay American Investment Corporation. Ngày 13 tháng 8, các báo cũng đưa tin trợ lý của Tổng Chưởng lý Mỹ đã “tới thăm” các phòng ban của Cosmopolitan Fiscal Corporation và một hãng đầu tư có tên Financial Counselor. Trong cả hai chuyến thăm, các giám đốc đều vắng mặt. Các văn phòng của Financial Counselor được thiết kế thêm các lỗ nhỏ như những cửa hang bán rượu lậu. Trong tháng 9, chứng khoán của các quỹ tín thác đầu tư còn được chào mời nhiều hơn cả trong tháng 8, với tổng giá trị lên tới hơn 600 triệu đô-la. Tuy nhiên, sự ra đời của của Shenandoah và Blue Ridge mới là đỉnh cao của một kỷ nguyên tài chính mới. Thật khó làm ngơ trước ý tưởng ẩn sau sự điên rồ này. Nếu đây là điều điên rồ, ít nhất đó là sự điên rồ kỳ vĩ. Nhiều năm sau, vào một buổi sáng bình minh xám xịt tại Washington, một cuộc điều trần trước Ủy ban Thượng viện Mỹ đã diễn ra. Thượng nghị sĩ Couzens: Có đúng Goldman, Sachs and Company lập nên Goldman Sachs Trading Corporation không? 51 Ông Sachs: Đúng, thưa ngài. Thượng nghị sĩ Couzens: Và họ bán cổ phiếu cho dân chúng? Ông Sachs: Một phần thôi. Ban đầu, chúng tôi đầu tư 10% với tổng giá trị 10 triệu đô-la. Thượng nghị sĩ Couzens: Và 90% còn lại được bán cho dân chúng? Ông Sachs: Vâng, thưa ngài. Thượng nghị sĩ Couzens: Ở mức giá bao nhiêu? Ông Sachs: 104. Đó là cổ phiếu cũ… cổ phiếu được chia nhỏ. Thượng nghị sĩ Couzens: Và hiện tại giá cổ phiếu đó là bao nhiêu? Ông Sachs: Khoảng 1¾. Chú thích (23) Trên thực tế, Seaboard Air Line là một hãng đường sắt, có trụ sở ở Florida. Thế kỷ XIX, khi vận tải hàng không mới chỉ tồn tại trong mơ của con người, thì cái tên Air Line đã được rất nhiều hãng vận tải đường sắt sử dụng. “Air line” ở đây là một lối nói ẩn dụ chỉ khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm. Trong tiếng Việt, chúng ta có cụm từ tương ứng là “đường chim bay”. Và cái tên “air line” này đã khiến nhiều nhà đầu tư lầm tưởng Seaboard Air Line là một hãng hàng không, do đó, cổ phiếu của hãng nằm trong danh sách đầu cơ ưa thích của các nhà đầu tư - ND. 52 CHƯƠNG IV Ảo mộng phôi phai Năm đó, mùa hè ở Phố Wall không buồn tẻ chút nào. Cùng với sự ra đời của quỹ tín thác đầu tư là thị trường sôi động. Ngày nào giá cũng tăng. Trong tháng 6, chỉ số công nghiệp Times tăng 52 điểm; tới tháng 7 tăng thêm 25 điểm nữa, tức là nó đã tăng 77 điểm chỉ trong vòng hai tháng. Trong suốt năm 1928 đáng nhớ, chỉ số này chỉ tăng 86,5 điểm. Sau đó, đến tháng 8, chỉ số này lại tăng thêm 33 điểm. Mức tăng trưởng 110 điểm trong vòng ba tháng – từ 339 vào ngày cuối cùng của tháng 5 tới 449 vào ngày cuối cùng của tháng 8 – như vậy, trong cả mùa hè, giá trị của nó đã tăng gần 1/4. Các cổ phiếu phát hành đơn lẻ cũng gặt hái được nhiều thành công. Trong ba tháng, giá cổ phiếu Westinghouse tăng từ 151 lên 286, lãi ròng 135; General Electric tăng từ 268 lên 391, và Steel tăng từ 165 lên 258. Ngay đến những chứng khoán ảm đạm như American Tel and Tel cũng đã tăng từ 209 tới 303. Các quỹ tín thác đầu tư thu lợi lớn. United Founders tăng mức giá chào bán từ 36 lên 68 đô-la; Alleghany Corporation từ 33 lên 56 đô-la. Khối lượng giao dịch cũng liên tục tăng cao. Khối lượng giao dịch của Sàn Giao dịch New York thường vào khoảng 4 đến 5 triệu cổ phiếu. Họa hoằn lắm mới có ngày dưới 3 triệu. Tuy nhiên, ngay cả khối lượng giao dịch trên Sàn New York cũng không còn phản ánh đầy đủ về cơn sốt đầu cơ chứng khoán. Rất nhiều đợt phát hành mới và sôi động của các quỹ tín thác đầu tư như Shenandoah, Blue Ridge, Pennroad, Insull Utilities không được niêm yết tại đây. Lý do không phải vì Sàn Giao dịch New York kiêu ngạo, tọc mạch hay tàn nhẫn; các công ty vẫn có thể niêm yết cổ phiếu nếu muốn. Nhưng rất nhiều công ty cho rằng sẽ là khôn ngoan và thuận tiện hơn nếu không phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của sàn. Vì vậy, cổ phiếu được giao dịch trên Sàn giao dịch vỉa hè, hoặc Boston, hay sàn giao dịch của các thành phố khác. Mặc dù khối lượng giao dịch trên Sàn Giao dịch New York vẫn lớn hơn so với tổng khối lượng giao dịch trên các sàn khác, nhưng vị thế của nó cũng đã bị ảnh hưởng ít nhiều. (Năm 1929, ước tính khối lượng giao dịch của sàn chiếm 61% tất cả các giao dịch; ba năm sau, khi phần lớn các quỹ mới đã vĩnh viễn biến mất, Sàn Giao dịch kiêm tới 76% tổng khối lượng giao dịch.) Trong không khí sôi động như thế, mùa hè năm 1929, các thị trường vốn ảm đạm của Boston, San Francisco, và thậm chí của cả Cincinnati đều bùng nổ. Thay vì chỉ là cái bóng mờ nhạt của những gì đang diễn ra tại Phố Wall, chúng cũng có cuộc sống và đặc điểm riêng. Ở đây có rao bán những cổ phiếu mà ở New York không có, và thậm chí một số còn gây tiếng vang đầu cơ khác thường. Năm 53 1929, ngay cả một thành phố nghèo nàn, buồn tẻ vì thiếu tinh thần công dân cũng phải phân vân không biết mình có nên thiết lập một thị trường chứng khoán hay không. Không chỉ có giá cổ phiếu thường tăng, mà lượng đầu cơ cũng leo thang ở mức giật mình. Số nợ của các nhà môi giới trong mùa hè tăng ở mức 400 triệu đô-la/tháng. Tới cuối mùa hè, con số này đã vượt ngưỡng 7 tỷ đô-la. Trong đó, hơn một nửa số nợ này được các tập đoàn và cá nhân, trong cũng như ngoài nước, những người lợi dụng mức tỷ lệ lãi suất rất hời ở New York, đổ vào. Rất hiếm khi lãi suất vay nóng xuống dưới mức 6%. Thông thường, nó dao động từ 7 đến 12%, có thời điểm, nó lên tới 15%. Như đã đề cập từ trước, vì các khoản nợ này an toàn, có khả năng thanh khoản cao và dễ quản trị, nên tỷ lệ lãi suất như vậy chắc chắn là miếng mồi hấp dẫn đối với cả những người cho vay nặng lãi ở Bombay, Ấn Độ. Đối với một số nhà quan sát đang lo ngại trước tình hình thị trường, thì dường như Phố Wall đang ngấu nghiến nuốt chửng toàn bộ số tiền của toàn thế giới. Tuy nhiên, như thường lệ, khi mùa hè dần qua đi, các nhà phát ngôn sáng suốt và có trách nhiệm không nhắm vào hiện tượng nợ môi giới tăng, mà lại quay sang chỉ trích những kẻ khăng khăng quan trọng hóa xu hướng này. Lúc này, những ai tiên đoán về sự sụp đổ đều trở thành đối tượng bị chỉ trích mạnh mẽ. II Thông tin về những khoản vay nợ của các nhà môi giới được cung cấp theo hai nguồn. Một là bảng trình bày hàng tháng của Sàn Giao dịch Chứng khoán New York. Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi. Hai là bản thống kê không đầy đủ của Hệ thống dự trữ liên bang ra hàng tuần. Cứ đến thứ Sáu, bản báo cáo này cho thấy có sự tăng mạnh trong khối lượng nợ; cứ đến thứ Sáu, bản báo cáo này cũng lại tuyên bố chắc nịch, nó không ám chỉ điều gì hết, và nếu ai đó có gợi ý gì khác, người đó sẽ bị khiển trách nghiêm khắc. Có vẻ như trên thị trường chỉ có một nhóm thiểu số liên hệ khối lượng nợ từ môi giới với lượng mua ký quỹ và tiếp đó là khối lượng đầu cơ. Chính vì lẽ đó, bất kỳ biểu hiện lo ngại nào trước những khoản nợ này đều dễ dàng bị quy là nỗ lực vô cớ nhằm làm suy suyển lòng tin. Ngày 8 tháng 7, trên tờ Barron’s, Sheldon Sinclair Wells đã giải thích rằng những người lo lắng về nợ môi giới và sự đổ bộ của các quỹ tín thác tập đoàn là những kẻ không biết gì. Theo Wells, thị trường vay nóng đã trở thành điểm hẹn đầu tư mới cho nguồn dự trữ tiền của các tập đoàn. Nhưng những người phản đối lại không mấy coi trọng sự thay đổi này. Chủ tịch Mitchell của Ngân hàng National City, vốn là người điềm tĩnh, cũng đã nhiều lần phải nổi giận trước sự chú ý dành cho các khoản nợ cầm cố và ông thể hiện quan điểm của mình rất rõ ràng. Giới báo chí tài chính cũng cảm thấy bực bội, và sau đó, khi Arthur Brisbane chất vấn sự thích đáng của 54 mức lãi suất vay nóng 10%, Wall Street Journal đã hết kiên nhẫn: “Ngay cả ở những tờ báo phổ thông nhất, người ta cũng cần có một số kiến thức chính xác để bàn luận vấn đề. Làm sao có chuyện bất kỳ kẻ ngu dốt nào cũng có thể lôi Phố Wall ra làm chủ đề cơ chứ?” (Có lẽ Brisbane đã nghĩ lãi suất 10% là mức lãi suất tính theo ngày chứ không phải tính theo năm). Các học giả cũng chỉ trích tất cả những ai vô tình hoặc cố ý phá hoại sự thịnh vượng bằng thái độ bi quan không che giấu. Sau khi từ tốn điểm lại tình hình, Giáo sư Dice kết luận rằng tỷ lệ nợ môi giới cao không “đáng sợ như những gì nhiều người nói”. Tháng 8 năm đó, Ngân hàng Midland Bank của Cleveland đã cho ra mắt công chúng những tính toán chứng minh rằng không có gì phải lo ngại trừ khi khoản cho vay nợ của các tập đoàn lên tới 12 tỷ đô-la. Lời bảo đảm vững chắc nhất cho các khoản nợ môi giới là viễn cảnh của thị trường. Nếu cổ phiếu vẫn giữ giá cao và ngày càng lên cao hơn, và nếu chúng lên cao vì viễn cảnh biện minh cho giá cả thì sẽ không còn gì phải lo lắng về các khoản nợ đang chất cao như núi. Như thế, việc bảo đảm an toàn cho khối lượng nợ sẽ bao gồm việc bảo vệ các cấp thị trường. Thuyết phục mọi người rằng thị trường vẫn ổn không phải là việc khó, và như mọi khi, vào những thời điểm như thế này, các nhà đầu tư sẽ muốn bịt tai lại trước những lời nghi ngờ khó chịu và chỉ muốn nghe những tuyên bố đầy tự tin. Vào năm 1929, phản quốc chưa trở thành một từ thông dụng trong các lời chỉ trích. Do đó, sự bi quan cũng không bị công khai đánh đồng với nỗ lực phá hoại lối sống Mỹ. Nhưng quả thật, nó đã hàm chứa những ý nghĩa như vậy. Sau này, gần như tất cả những người có liên quan đến vấn đề này đều nói rằng họ đã rất lo lắng và sợ hãi khi đưa ra những phát biểu đó. (Sau đó, cũng trong năm này, một công ty tư vấn đầu tư ở Boston lại tiếp tục đưa ra lời cảnh báo được công bố rộng rãi rằng nước Mỹ không có chỗ dành cho “những kẻ phá hoại”.) Đội ngũ những người lạc quan rất đông đảo và đều là những người có tài ăn nói. Vì vậy, vào tháng 6, trong một cuộc phỏng vấn được đăng trên tờ The American Magazine, Bernard Baruch đã cam đoan với Bruce Barton rằng “điều kiện kinh tế thế giới dường như đang trên đà phát triển mạnh mẽ”. Theo ông, không một kẻ bi quan nào có thể có chốn dung thân ở Đại lộ số 5. Rất nhiều giáo sư cũng bày tỏ thái độ tự tin dựa trên cơ sở khoa học nghiêm túc. Khi những diễn biến xảy ra sau đó, danh tiếng của khối trường Ivy League trở nên cực kỳ tệ hại. Trong một phát ngôn ít gây tiếng xấu hơn cả, Lawrence của trường Princeton phát biểu: “Hàng triệu người đưa ra những định giá xác đáng, đúng theo tình hình thị trường đáng ngưỡng mộ này đều nhất trí rằng cổ phiếu tại thời điểm hiện tại không bị định giá quá cao.” Ông cũng nói thêm: 55 “Đâu là nhóm người với trí tuệ siêu việt, tự gán cho mình quyền phủ quyết đánh giá của dư luận đầy thông thái này?” Mùa thu năm đó, Giáo sư Irving Fisher(24) của Yale đã đưa ra một dự đoán bất hủ: “Giá cổ phiếu đã đạt tới cái gọi là trạng thái bình ổn vĩnh viễn.” Irving Fisher là nhà kinh tế học tiên phong của nền kinh tế Mỹ. Nhưng thật may mắn là ông còn nhiều đóng góp tốt đẹp hơn để người ta nhớ đến như đóng góp của ông vào việc cho ra đời chỉ số chứng khoán, lý thuyết kinh tế mang tính kỹ thuật, và lý thuyết tiền tệ. Từ Cambridge, Câu lạc bộ kinh tế Harvard gửi đến lời trấn an khiêm tốn hơn. Đây là một tổ chức hoạt động ngoại khóa của các giáo sư Harvard bảo thủ. Mục đích của hội là giúp các thương gia và nhà đầu cơ dự đoán tương lai. Dự báo được tiến hành một tháng vài lần và chắc chắn, với cái tên Harvard đầy uy tín, hội đã đạt được vị thế rất cao. Đầu năm 1929, không biết là do sự thông thái hay do vô tình đoán trúng, hội tỏ ra hơi bi quan. Các nhà dự báo của hội quả quyết lẽ ra phải có một đợt suy giảm (dù chắc chắn không phải là suy thoái) diễn ra. Tuần qua tuần, họ dự tính một cú sụt nhẹ trong kinh doanh. Tới mùa hè năm 1929, vẫn chưa có cú sụt giảm nào xảy ra, câu lạc bộ bỏ cuộc và chấp nhận sai lầm. Lúc này, họ lại cho rằng dù thế nào thì cuối cùng hoạt động kinh doanh cũng lại khởi sắc. Như hầu hết các nhận định khác, đây vẫn là thông tin đáng tin cậy, nhưng sau đó khủng hoảng ập tới. Nhưng hội vẫn tin rằng không có nguy cơ khủng hoảng nghiêm trọng. Tháng 11, họ còn nói chắc chắn rằng “không thể lại có một đợt khủng hoảng nặng nề như hồi năm 1920-1921. Chúng ta sẽ không phải đối mặt với nguy cơ thanh lý kéo dài.” Quan điểm này còn được lặp lại nhiều lần cho đến khi hội phải giải thể. III Các giám đốc ngân hàng cũng là nguồn động viên cho những ai muốn tin vào sự vĩnh hằng của thời kỳ bùng nổ. Rất nhiều người trong số họ đã từ bỏ vai trò lịch sử là người bảo vệ cho chủ nghĩa bi quan tài chính của quốc gia và tận hưởng những giây phút lạc quan ngắn ngủi. Họ có lý do khi làm vậy. Trong những năm trước đó, rất nhiều ngân hàng thương mại, bao gồm cả hai ngân hàng lớn nhất New York, đã hợp lại tổ chức một liên hiệp chứng khoán. Liên hiệp này bán cổ phiếu và trái phiếu cho công chúng, và hoạt động kinh doanh này ngày càng trở nên quan trọng. Chính nó đã đem lại viễn cảnh tương lai tươi sáng. Thêm vào đó, bản thân các chủ ngân hàng này, có lẽ là do bắt được tín hiệu từ các ông trùm của National City và Chase, cũng ráo riết đầu cơ. Do đó, họ khó có khả năng nói ra, chứ chưa nói là tán thành, bất cứ điều gì gây chấn động thị trường. 56 Tuy nhiên, cũng có vài ngoại lệ. Ví dụ như Paul M. Warburg(25) của Ngân hàng International Acceptance, người có những dự đoán nổi tiếng chẳng kém gì những dự đoán của Irving Fisher. Chúng “thiêng” đến mức đáng ngạc nhiên. Tháng 3 năm 1929, Warburg kêu gọi Cục Dự trữ Liên bang đưa ra những chính sách mạnh tay hơn và lập luận rằng nếu Cục không kịp thời chặn đứng cuộc truy hoan hiện tại của “nạn đầu cơ hoành hành”, kết quả tất yếu sẽ là cú gục thảm khốc của thị trường. Và bất hạnh sẽ không chỉ giáng xuống đầu các nhà đầu cơ. Nó sẽ “gây ra khủng hoảng chung trên khắp cả nước”. Chỉ có các phát ngôn viên của Phố Wall, những người nhìn Warburg với ánh mắt thương hại nhất, mới gọi ông là kẻ lỗi thời. Có người gọi thẳng ông là “kẻ ngăn chặn sự giàu có của nước Mỹ”. Những người khác lại cho rằng Warburg có động cơ nào đó – rất có thể, ông ta đang ở thế giá xuống(26). Khi thị trường ngày một lên cao hơn, người ta nhắc lại những lời cảnh báo của Warburg bằng thái độ khinh thường. Những kẻ hoài nghi đáng chú ý nhất chính là báo giới. Họ ắt hẳn là nhóm thiểu số đáng gờm. Phần lớn các báo và tạp chí năm 1929 đều đưa tin về những đợt xuất kích của thị trường với thái độ ngưỡng mộ và không hề cảnh giác. Hiện tại và tương lai trong mắt họ là cả một màu hồng. Đến năm 1929, nhiều nhà báo lạnh lùng cưỡng lại những lời xu nịnh, tâng bốc tinh tế mà nhiều người cho rằng sẽ dễ dàng tác động đến họ. Thay vào đó, họ vòi vĩnh tiền mặt để đưa những tin có lợi cho thị trường. Một nhà bình luận tài chính của tờ Daily News có bút danh là “The trader” (Người giao dịch) đã nhận khoảng 19.000 đô-la từ năm 1929 đến đầu năm 1930 từ một cá nhân lũng đoạn thị trường riêng lẻ tên là John J. Levenson. “Người giao dịch” liên tục ca tụng những cổ phiếu mà Levenson ưa thích. Sau này, Levenson khăng khăng cho rằng đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên và số tiền đó chỉ là thói quen hào phóng vốn có của ông. Bình luận viên đài phát thanh tên là William J. McMahon là Chủ tịch của trung tâm nghiên cứu kinh tế McMahon. Vì thế, trong các dự đoán của mình, ông vẽ ra viễn cảnh tuyệt vời của cổ phiếu mà các nhà quản lý quỹ vốn chung đang mong chờ bùng nổ. Sau này, mọi người phát hiện ra, với công việc này, ông nhận được 250 đô-la mỗi tuần từ David M. Lion – một trong những nhân vật được tờ Peroca Community cho là kinh doanh bằng cách mua những lời nhận xét có lợi với số lượng cần thiết vào những thời điểm thích hợp. Những gì tốt đẹp nhất của báo giới tài chính lại tồn tại ở một thái cực khác. Những dịch vụ tài chính có tiếng tăm như của Poor và Standard Statistics Company không bao giờ lơ là thực tế. Mùa thu năm đó, ấn bản Weekly Business and Investment Letter của Poor đã đề cập tới “những ảo tưởng lớn về cổ phiếu thường”. Trong khi đó, biên tập viên của The Commercial and 57 Financial Chronicle lại tin chắc rằng Phố Wall đã cho các giác quan của mình nghỉ phép hết. Các bản báo cáo hàng tuần về nợ môi giới thường xuyên đưa ra những cảnh báo nghiêm túc, và mục điểm tin luôn đăng tải bất cứ mẩu tin xấu nào xảy ra. New York Times là tờ báo điềm tĩnh hơn cả. Dưới sự dẫn dắt của cây bút kỳ cựu Alexander Dana Noyes, trang tài chính của báo này gần như miễn dịch hoàn toàn trước các lời xu nịnh của Kỷ Nguyên Mới. Những bạn đọc thường xuyên sẽ không thể nghi ngờ về việc ngày tận thế đang tới gần. Thậm chí, trong một vài lần hấp tấp, tờ báo còn khẳng định ngày đó đã đến. Những khoảng lặng trên thị trường trước sự sụp đổ thật sự là thử thách hết sức nghiêm túc đối với những ai không tin vào điều viển vông. Quả thật, trong những thời điểm như đầu năm 1928, tháng 6, tháng 12 năm 1928, và tháng 2, tháng 3 năm 1929, dường như đoạn kết đã đến. Rất nhiều lần, New York Times hồ hởi thông báo thị trường đã quay trở lại với thực tế. Nhưng ngay sau đó, thị trường lại cất cánh bay lên. Chỉ có niềm tin bền bỉ vào sự tồn tại của khủng hoảng mới có thể chống lại sự nản lòng như thế. Cuối cùng, thời điểm đó cũng đến khi giới lạc quan “gặt hái bội thu” sự nghi ngờ, thiếu tin tưởng của mọi người. Nhưng người ta cũng quên mất rằng trong nhiều tháng, những người che mắt bịt tai trước những lời bảo đảm, trấn an cũng bị mất uy tín tương tự, tuy rằng không phải là vĩnh viễn. Nếu nói New York Times đã hân hoan mô tả sự kiện sụp đổ khi nó thật sự xảy sẽ là nói quá, nhưng quả thật, tờ báo này đã bình luận với giọng điệu chẳng mảy may buồn bã. IV Tới mùa hè năm 1929, thị trường không chỉ thống trị báo giới, nó còn thống trị cả văn hóa. Những nhóm thiểu số, nếu lúc khác sẽ thừa nhận sự quan tâm của mình đối với Thánh Thomas Aquinas, Proust, phân tâm học, và thuốc chữa căng thẳng thần kinh, thì giờ không ngừng nói về United Corporation, United Founders và Steel. Chỉ những kẻ lập dị nhất mới nhất quyết tránh xa thị trường và giữ mối quan tâm tới hiện tượng tự ám thị hay chủ nghĩa cộng sản. Lúc này, bất kỳ ai nói về việc mua bán cổ phiếu với giọng đầy hiểu biết đều trở thành người rất có uy tín trong lĩnh vực này. Ở New York, bên lề mỗi buổi tụ họp của những nhân vật nổi tiếng luôn có sự hiện diện của một nhà môi giới, hoặc một chuyên gia tư vấn đầu tư – người thông thạo các cổ phiếu hiện đang lưu hành, sẵn sàng đưa ra lời khuyên chung vốn, đấu thầu, sáp nhập, và gợi ý về các cơ hội hấp dẫn. Anh ta nhiệt tình cố vấn bằng hữu về các khoản đầu tư, và nhấn mạnh rằng, anh ta sẽ nói tất cả những gì mình biết về thị trường dù phần nhiều trong số đó là những điều anh ta không biết. Giờ đây, những người như vậy bỗng dưng tỏa sáng dù họ ở giữa các nghệ sĩ, nhà viết kịch, nhà thơ và những người đẹp. Những lời nói của họ, ít hay nhiều đều trở thành những lời có cánh. Độc giả của họ không chỉ lắng nghe với sự chú ý của những người 58 muốn sưu tập thơ trào phúng để trích dẫn, mà là với sự say mê thật sự của những người muốn kiếm ra tiền từ những gì nghe được. Phần nhiều những gì được lặp đi lặp lại về thị trường – xưa cũng như nay – đều không liên quan tới thực tế. Đây là điều quan trọng, nhưng lại không được chú ý. Giữa con người với nhau có một dạng giao tiếp không bắt nguồn từ kiến thức, hoặc thậm chí từ sự thiếu hụt kiến thức, mà bắt nguồn từ sự thất bại không nắm được kiến thức. Điều này đúng với phần lớn các bài thuyết trình trên thị trường. Trong một bữa trưa tại khu Scranton, nhà vật lý học tài ba bàn về sự chia nhỏ sắp tới của cổ phiếu Western Utility Investors và tác động của nó đối với giá cả. Các thính giả của ông không hiểu tại sao cần phải chia nhỏ và tại sao hành động này sẽ đẩy giá trị lên, hoặc thậm chí tại sao Western Utilities Investors nên có giá trị. Nhưng họ không biết rằng ngay cả nhà vật lý tài ba kia cũng không trả lời được những câu hỏi đó. Bản thân sự thông thái thường là quan điểm trừu tượng, không xuất phát từ dữ liệu hoặc thực tế, mà chỉ tùy thuộc vào việc người ta có dám xác nhận nó bằng thái độ quyết đoán hay không. Có lẽ thất bại trong việc hình dung ra sự thiếu hụt kiến thức của một ai đó đặc biệt đúng với trường hợp của các nhà đầu tư là phụ nữ, những người đang bước vào thị trường với số lượng ngày càng lớn. (Theo một bài báo trên North American Review vào tháng 4, phụ nữ đã trở thành những người chơi quan trọng trong “trò chơi tư bản hấp dẫn nhất của phái mạnh”; những bà nội trợ hiện đại ngày nay “đọc về những chủ đề như, Wright Aero đang tăng giá… cứ như việc họ biết rằng ngoài chợ có cá tươi vậy…” Tác giả bài báo còn mạo muội đoán rằng thành công trong đầu cơ sẽ đưa nữ giới lên vị thế cao hơn.) Đối với một nhà đầu tư nữ điển hình, Steel không phải là một tập đoàn, và chắc chắn nó không liên quan tới hầm mỏ, tàu thuyền, đường ray, lò luyện gang, hay những lò luyện kim đang mở, mà là những biểu tượng trên cuốn băng điện báo, các đường kẻ trên biểu đồ và giá cổ phiếu tăng. Bà ta sẽ nói về Steel thân thiết như nói về một người bạn cũ, dù chẳng biết chút gì về nó, và cũng không một ai nói cho bà biết. Chúng ta là những người lịch sự và thận trọng, vì vậy, chúng ta thường tránh gây khó chịu đối với người khác. Hơn thế nữa, những lời khuyên như thế sẽ chẳng mang lại kết quả gì, mà chỉ chỉ tạo ra cảm giác khinh thường đối với những người thiếu dũng khí, thiếu chủ động và tinh tế để chấp nhận sự giàu có dễ dàng của một người khác. Nhà đầu tư nữ đã nhận ra rằng bà ta có thể trở nên giàu có. Và chắc chắn là bà ta cũng có quyền làm giàu như bất cứ ai khác. Một đắc trưng của phụ nữ là động lực của họ. Dù thường giống nhau, nhưng động lực của phụ nữ không bị cố tình che đậy nhiều như nam giới. 59 Một xã hội nếu chỉ chú trọng vào việc kiếm tiền thì sẽ không thể thể hiện những giá trị làm an lòng mọi người. Mùa hè năm 1929, New York Times đồng ý cho đăng bài báo của một nhân viên giao dịch ở National Waterworks Corporation, một công ty được thành lập chỉ nhằm mục đích mua cổ phần của các công ty nước trong thành phố. Quảng cáo đem lại ý tưởng hám lợi sau đây: “Hãy mường tượng bức tranh này, nếu vì một biến cố nào đó, cả thành phố New York rộng lớn chỉ còn một giếng nước – thì giá của mỗi thùng nước sẽ là 1 đô-a, rồi 100 đô-la, 1.000 đô-la, 1 triệu đô-la. Người nào có được giếng nước sẽ làm chủ cả thành phố.” Tất cả các nhà đầu tư mê muội trước những lời có cánh đều được giục giã mua nhanh để hưởng lợi nhuận trước khi quá muộn. V Vai trò trung tâm của thị trường chứng khoán trong cuộc sống của người Mỹ vào mùa hè năm 1929 là điều không thể chối cãi. Rất nhiều người với những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau đều có mặt trên thị trường chứng khoán. Frederick Lewis Allen đã mô tả việc tham gia đa dạng này trong một đoạn văn hay: Tài xế của ông chủ giàu có lái xe với đôi tai dỏng lên nghe ngóng tin tức về bước đi sắp tới của Bethlehem Steel; ông này có 50 cổ phần với 20 điểm ký quỹ. Người lau cửa sổ tại văn phòng của nhà môi giới dừng lại để theo dõi băng điện báo, ông đang nghĩ tới việc chuyển khoản tiền tiết kiệm mồ hôi nước mắt của mình thành một số cổ phần của Simmons. Edwin Lefèvre (một nhà báo có tài ăn nói trên thị trường) tiết lộ cô hầu phòng của một nhà môi giới đã kiếm được gần 250.000 đô-la trên thị trường, hay câu chuyện về một y tá đã kiếm được 30.000 đô-la sau khi nghe theo lời khuyên của bệnh nhân, và người nuôi gia súc ở vùng Wyoming, sống cách đường tàu gần nhất tới 30 dặm, nhưng mỗi ngày đều mua hoặc bán 1.000 cổ phiếu. Việc đánh giá quá cao sự quan tâm chung đối với thị trường có những nguy hiểm khôn lường. Thứ sáo ngữ khẳng định chắc nịch rằng năm 1929, tất cả mọi người đều góp mặt trên thị trường khác xa sự thật rất nhiều. Vào thời điểm đó, cũng như bây giờ, đối với đa số công nhân, nông dân, nhân viên văn phòng, hay thực chất là đối với phần lớn người dân Mỹ, thị trường chứng khoán là một thứ xa xôi và là điềm gở mơ hồ. Vào thời điểm đó, cũng như bây giờ, không nhiều người biết cách mua chứng khoán; việc mua cổ phiếu ký quỹ xét trên mọi góc độ đều xa lạ đối với cuộc sống của nhiều người dân, cũng giống như chơi bạc tại sòng bạc tại Monte Carlo vậy. Vài năm sau, một ủy ban nghị viện đã tiến hành điều tra toàn bộ thị trường để tìm hiểu số người tham gia đầu cơ chứng khoán năm 1929. Các công ty thành viên từ 29 sàn giao dịch vào năm đó báo cáo rằng họ có tổng cộng 1.548.707 khách hàng. (Trong số đó có 1.371.920 là khách hàng của các công 60 ty thành viên của Sàn Giao dịch Chứng khoán New York.) Như vậy, chỉ có 1,5 triệu người trong tổng dân số khoảng 120 triệu người tích cực tham gia thị trường chứng khoán. Và không phải tất cả họ đều là nhà đầu cơ. Các công ty môi giới ước tính chỉ có khoảng 600.000 trong số các tài khoản kể trên tham gia vào giao dịch ký quỹ, so với khoảng 950.000 tài khoản giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt. Con số 600.000 nhà giao dịch ký quỹ là có tính đến cả những hoạt động đầu cơ lặp đi lặp lại – một số nhà đầu tư lớn không chỉ đăng ký tài khoản với một nhà môi giới. Ngoài ra, còn có một số nhà giao dịch với hoạt động không đáng kể. Tuy nhiên, trong số 950.000 khách hàng thuộc nhóm còn lại cũng có một số nhà đầu cơ. Họ đã đẩy toàn bộ giá mua cho các chứng khoán của họ, và đây cũng là một hoạt động đầu cơ. Một số khác vay tiền từ ngoài thị trường và thế chấp bằng chứng khoán. Mặc dù trên danh nghĩa họ giao dịch bằng tiền mặt, nhưng thực ra họ đã mua ký quỹ. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng tại thời kỳ đỉnh điểm năm 1929, số lượng các nhà đầu cơ hoạt động tích cực là chưa đến 1 triệu, và có thể còn ít hơn thế nhiều. Giữa khoảng cuối năm 1928 và cuối tháng 7 năm 1929, một giai đoạn được nhiều tác phẩm văn học miêu tả là giai đoạn người Mỹ đổ xô vào thị trường đông như kiến cỏ, thì thực ra tổng số tài khoản ký quỹ trên tất cả các sàn giao dịch toàn quốc chỉ tăng lên thêm khoảng hơn 50.000 tài khoản. Điều đáng chú ý về nạn đầu cơ trên thị trường chứng khoán năm 1929 không phải là sự tham gia với quy mô lớn, mà là cách nó trở thành tiêu điểm của nền văn hóa. VI Cho tới cuối mùa hè năm 1929, các bảng tin và thư báo của các nhà môi giới không còn bằng lòng với việc chỉ thông báo cổ phiếu hôm đó sẽ tăng và tăng bao nhiêu. Họ chuyển sang cách nói mới: vào 2 giờ chiều Radio hoặc GM sẽ bị “lấy tận tay”. Chưa bao giờ việc kết tội thị trường là công cụ cá nhân của những người bí ẩn nhưng có quyền hạn tuyệt đối lại dấy lên mạnh mẽ như thế. Và, quả thực, đây là thời kỳ hoạt động điều tiết của các quỹ chung và xanh-đica trở thành hoạt động lũng đoạn thị trường. Trong năm 1929, hơn 100 đợt phát hành của Sàn Giao dịch Chứng khoán New York có liên quan tới hoạt động này. Bản chất của những đợt điều tiết có đôi chút khác biệt, nhưng thông thường, một số nhà giao dịch sẽ cùng nhau hùn vốn để đẩy giá một cổ phiếu nào đó lên. Họ chỉ định một quản lý chung, cam kết không “ăn hai mang” thông qua các đợt điều tiết riêng lẻ. Sau đó, người quản lý sẽ mua cổ phiếu, và cổ phiếu này cũng có thể bao gồm những cổ phần do các thành viên đóng góp. Việc mua vào sẽ góp phần làm tăng giá và thu hút sự quan tâm của những người theo dõi trên khắp nước Mỹ. Sự quan tâm sẽ được đẩy lên cao hơn nữa qua các hoạt động mua bán dày đặc, tạo cảm giác về một đợt bùng nổ thật sự. 61 Các ấn bản hướng dẫn đầu tư và các bình luận viên của thị trường sẽ kể về diễn biến sôi động của cổ phiếu trong tương lai. Nếu mọi chuyện tiến triển tốt, dân chúng sẽ đổ xô đi mua, và giá cả sẽ tự dâng lên. Nhà quản lý khi đó sẽ bán ra, trả cho mình một số phần trăm lợi nhuận, và chia số còn lại cho các nhà đầu tư. Thời đó, không có cách kiếm tiền nào được sử dụng nhiều như cách này. Phần lớn người dân đều cảm nhận được sự hấp dẫn của các hoạt động điều tiết, và khi mùa hè tới thì có vẻ như Phố Wall không quan tâm mấy tới những điều khác nữa. Điều này có phần thái quá, nhưng nó không ngăn cản được hoạt động của các nhà đầu tư trên thị trường. Người ta không tin là mình bị lợi dụng. Và họ cũng không bị lợi dụng. Cả họ và các nhà hùn vốn đều kiếm tiền qua chênh lệch giá, chỉ có điều khác biệt duy nhất là các nhà hùn vốn kiếm nhiều tiền hơn. Trong bất cứ trường hợp nào, phản ứng của công luận đối với các đợt điều tiết nội bộ đều là hy vọng rằng họ có thể moi móc được một số thông tin và được dự phần trong khoản lợi nhuận kếch xù mà những ông lớn như Cutten, Livermore, Raskob đang hưởng thụ. Khi thị trường mất dần hình ảnh là nơi hội tụ của các doanh nghiệp triển vọng, và thay vào đó là hình ảnh của một sản phẩm trò chơi điều tiết, nhà đầu cơ buộc phải chú ý hơn, và tốt hơn là chú ý liên tục. Các dấu hiệu của hoạt động chung vốn đang hình thành cần được nhận biết sớm nhất có thể, có nghĩa là mọi người cần phải theo dõi sát sao băng điện báo. Tuy nhiên, ngay cả những người cảm tính, tin vào bùa chú hay niềm tin đơn giản (để phân biệt với năng lực đánh giá mục đích của giới chuyên môn) cũng thấy khó mà không biết gì. Chỉ trong trường hợp của những cá nhân hiếm hoi nhất, đầu cơ mới là hoạt động phụ thêm. Đối với nhiều người, tiền là thứ cực kỳ quan trọng. Trong khủng hoảng Bong bóng South Sea, có người từng nhận xét: “Các chính khách quên mất chính trị; luật sư quên tòa án; nhà buôn quên mất công việc buôn bán; bác sĩ quên bệnh nhân; con nợ quên chủ nợ; linh mục quên bục giảng kinh, và thậm chí chính những người phụ nữ đã quên mất lòng kiêu hãnh và bàn trang điểm!” Và đó cũng là bối cảnh năm 1929. “Các văn phòng môi giới chật kín người đứng kẻ ngồi từ 10 giờ sáng tới 3 giờ chiều, họ dán mắt vào tấm bảng đen thay vì dành thời gian chú tâm vào công việc. Trong một số “văn phòng khách hàng”, phải khó khăn lắm người ta mới kiếm được một chỗ để nhìn được bảng giá, không ai có cơ hội kiểm tra băng thông tin. Vì thế, việc đứt liên lạc với thị trường, dù chỉ trong thời gian ngắn, là điều rất khó chịu. May thay, việc ngồi chờ đợi tại các sàn giao dịch không phải lúc nào cũng cần thiết. Dịch vụ băng điện báo đã có mặt trên toàn quốc. Chỉ cần một cú điện thoại, người ta cũng có thể biết được giá cả từ khắp các nơi. Nhưng những chuyến đi tới châu Âu thì lại khác. Như tờ Literal Digest chỉ ra 62 trong mùa hè: “Dịch vụ môi giới xuyên đại dương đã phát triển rất mạnh… Nhưng các nhà đầu cơ bên kia đại dương vẫn cảm thấy bất an và bất tiện”. Song đến tháng 8, khó khăn này cuối cùng cũng đã được khắc phục. Các công ty môi giới tân tiến – đi đầu là M. J. Meehan, chuyên gia của Radio và cũng là lão làng của rất nhiều chiến tích điều tiết thị trường đáng chú ý – mở chi nhánh trên các tàu lớn theo những quy định đặc biệt do Sàn Giao dịch đưa ra. Ngày 17 tháng 8, tàu Leviathan và tàu Ile de France rời cảng với trang thiết bị đầy đủ cho các hoạt động đầu cơ trên biển. Tình hình giao dịch trên tàu Ile vào ngày đầu tiên đã khá sôi động. Một trong những giao dịch đầu tiên là của Irving Berlin, người bán 1.000 cổ phần của Paramount-Famous-Lasky với giá 72 đô-la. (Đây là một bước đi khôn ngoan. Cổ phiếu này sau đó trượt xuống gần bằng 0 và công ty này cũng rơi vào phá sản). Tại Spokane, một nhà thơ giấu tên thuộc Ban biên tập của tờ SpokesmanReview tán dương các phòng họp trên biển bằng bài thơ sau: Chúng ta chen chúc trong cabin Theo dõi các con số trên bảng Khi đó là nửa đêm trên biển Và cơn bão đang gầm rú ngoài khơi “Chúng ta đã thua!”, thuyền trưởng hét lên, Và ông loạng choạng đi xuống cầu thang. “Tôi có tin mật”, ông ngập ngừng nói “Truyền thẳng từ đài của bà cô Của một người có họ hàng Với em họ của Durant.” Trước những lời tồi tệ này chúng ta rùng mình Và con bò tót khỏe mạnh nhất cũng run chân Trong khi các nhà môi giới hét lên “Tăng tiền đặt cọc!” Và băng điện báo ngừng tíc-tắc. Nhưng cô con gái nhỏ của thuyền trưởng Nói: “Nhưng cháu không hiểu − Chẳng phải là Morgan trên đại dương Giống y hệt như Morgan trên đất liền hay sao?” VII Ngày Lao động Mỹ(27) kết thúc mùa hè năm 1929 vào ngày 2 tháng 9. Khi đó, có một đợt nóng khủng khiếp đang diễn ra. Tối hôm đó, những chiếc xe ô tô quay trở lại New York sau kỳ nghỉ giăng kín thành phố tới mấy dặm. Cuối cùng rất nhiều người buộc phải bỏ xe lại và đi tàu điện ngầm về nhà. Ngày 3 tháng 9, thành phố tiếp tục chìm trong cái nóng oi ả mà theo dự báo của Viện Khí tượng thủy văn là ngày nóng nhất trong năm. Cách xa Phố Wall là một ngày yên ả và thanh bình. Nhiều năm sau, Frederick Lewis Allen lục tìm lại các tờ báo ra ngày hôm đó và có một bài viết 63 thú vị về những gì ông tìm được. Thông tin chẳng có gì nhiều. Việc giải trừ quân bị được bàn luận với mạch văn rời rạc theo lệ thường. Máy bay Graf Zeppelin đã gần kết thúc chuyến bay đầu tiên vòng quanh thế giới. Một máy bay ba động cơ của Transcontinental Air Transport đã gặp nạn trong một trận bão ở New Mexico, cướp đi sinh mạng của 8 người. Babe Ruth đã hạ gục 40 cú home run(28) đầu mùa giải. Nằm trong tốp những cuốn sách bán chạy nhất, All Quiet on the Western Front (Phía Tây không có gì lạ) có thế mạnh hơn so với Dodsworth. Váy vóc của các quý bà đều nhấn mạnh vào vẻ ngoài phẳng lì không thể chối cãi. Từ Washington có tuyên bố rằng Harry F. Sinclair, khi đó đang bị giam ở quận Columbia vì tội khinh thường thượng nghị sĩ trong các cuộc điều tra Teapot Dome, sẽ bị quản thúc chặt hơn. Trước đó, ông này từng ngày ngày đi ô tô tới văn phòng của vị bác sĩ trại giam với tư cách là “trợ lý”. Trước đó nữa, khối lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán của Sinclair đạt khối lượng lớn, và sau đó trở thành đề tài của một cuộc điều tra chi tiết. Người ta không biết liệu quãng thời gian của ông này tại Washington có gây ra gián đoạn nào nghiêm trọng không. Nhiều khả năng là không. Ông Sinclair là một trong những chủ doanh nghiệp tháo vát và bền bỉ nhất của thế hệ mình. Cũng trong ngày 3 tháng 9, Sàn Giao dịch chứng khoán New York bán ra 4.438.910 cổ phần, số tiền vay nóng trong ngày hôm đó ở mức 9%, và mức lãi suất được các ngân hàng công bố trên các tờ báo thương mại tên tuổi là 6,5%, tỷ lệ lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York là 6%. Thị trường vẫn mạnh mẽ với cái mà các phóng viên thị trường gọi là những đợt sóng ngầm đáng mừng. American Tel and Tel vươn tới mức 304 ngày hôm đó. U.S Steel đạt mức 262, General Electric là 396, J. I. Case là 350. New York Central 256, Radio Corporation of America sau khi điều chỉnh cho việc chia cổ phần trước đó cộng với phần cổ tức chưa trả đạt mức 505 điểm. Thống kê về nợ môi giới của Dự trữ Liên bang cũng cho thấy sự gia tăng lớn – 137 triệu đô-la trong vòng một tuần. Các ngân hàng New York đang ráo riết vay tiền từ Cục Dự trữ Liên bang để phục vụ cho thượng tầng kiến trúc đầu cơ – bằng chứng là khoản vay của họ trong tuần đã tăng thêm 64 triệu đô-la. Vào tháng 8, lưu lượng vàng từ các nước khác ồ ạt đổ vào New York. Một tháng mới có vẻ như đã mở màn rất thuận lợi. Một số người đã thể hiện sự tự tin. Mọi người cũng đồng tình rằng ngày 3 tháng 9 là ngày cuối cùng của thị trường bò tót hùng mạnh những năm 1920. Kinh tế học, như mọi khi, mang đến cho chúng ta một số bước ngoặt đột ngột. Các hoạt động của nó luôn luôn mờ nhạt và thậm chí là mập mờ. Vài ngày sau đó – chỉ vài ngày – một số chỉ số trung bình thậm chí còn lên cao hơn. Tuy nhiên, thị trường không còn bộc lộ 64 sự tự tin như xưa nữa. Những đỉnh cao tiếp theo không còn là đỉnh cao, mà chỉ là những gián đoạn ngắn trong chuỗi trượt dốc mà thôi. Ngày 4 tháng 9, nhìn chung, thị trường vẫn khá tốt, và sau đó ngày 5 tháng 9, mọi hoạt động đột ngột chững lại. Chỉ số công nghiệp Times giảm 10 điểm, rất nhiều cổ phiếu còn giảm mạnh hơn thế. Các cổ phiếu blue chip vẫn cầm cự khá tốt, cho dù Steel giảm từ 255 xuống 246, Westinghouse mất 7 điểm và Tel and Tel mất 6 điểm. Khối lượng bán tăng nhanh chóng vì người ta bắt đầu mạnh tay bán ra, và trong ngày hôm đó có 5.565.280 cổ phiếu được giao dịch trên Sàn Giao dịch Chứng khoán New York. Nguyên nhân chính của đợt sụt giá này là rõ ràng – và thú vị. Phát biểu trước Hội thảo Kinh doanh Quốc gia thường niên vào ngày 5 tháng 9, Roger Babson quan sát: “Sớm hay muộn khủng hoảng cũng sẽ tới, và có thể nó sẽ rất khủng khiếp.” Ông gợi ý rằng những gì từng xảy ra tại Florida giờ sẽ lặp lại tại Phố Wall, và với sự chính xác thông thường, ông còn đưa ra nhận định rằng chỉ số (Dow-Jones) trung bình có thể sẽ giảm 60 tới 80 điểm. Trong tiếng tung hô, ông kết luận: “các nhà máy sẽ đóng cửa… công nhân sẽ bị đuổi việc… vòng tuần hoàn sẽ quay tròn và kết quả là một đợt suy thoái kinh tế nặng nề”. Đây không phải là những lời khiến người ta an lòng. Tuy thế, vấn đề là ở chỗ tại sao thị trường đột nhiên lại chú ý tới những gì Babson nói. Babson đã từng đưa ra nhiều dự đoán và chúng chưa từng có ảnh hưởng lớn tới giá cả. Hơn thế nữa, Babson không phải là người có khả năng khơi dậy sự tự tin như một nhà thông thái theo phong cách của Irving Fisher hay của Câu lạc bộ kinh tế Harvard. Là một nhà giáo dục, triết gia, nhà thần học, nhà thống kê, nhà dự báo, nhà kinh tế học, và là người ủng hộ định luật hấp dẫn, đôi lúc người ta nghĩ, ông này “dàn” bản thân hơi mỏng. Các phương pháp ông sử dụng để đi đến kết luận cũng là một vấn đề. Chúng là một mớ bòng bong các đường kẻ và các ô trên biểu đồ. Trực giác, và thậm chí cả sự thần bí cũng đóng vai trò trong màn ảo thuật này. Vì thế, những ai quen với các phương pháp lý trí, khách quan và khoa học sẽ tự nhiên có cảm giác khó chịu với Babson, cho dù những phương pháp của họ không tiên đoán được khủng hoảng. Đã trở thành thông lệ văn hóa, đối với những vấn đề này, “nhầm lẫn” theo cách được kính trọng vẫn vẻ vang hơn nhiều so với việc đúng nhờ những lý luận sai lầm. Phố Wall không hề bối rối trước việc xử trí Babson. Babson bị hạ bệ nhanh chóng và hợp lý. Tờ Barron’s, trong ấn bản ra ngày ngày 9 tháng 9, đã đả kích Babson với giọng điệu mỉa mai như “thần tài xứ Wellesley” và nói rằng những ai từng biết tới “sự thiếu chính xác tai tiếng” trong những phát ngôn của ông này không nên coi những gì ông ta nói ra là nghiêm túc. Sàn Giao dịch Hornblower and Week còn cứng rắn nói với khách hàng của mình: “Chúng tôi 65 sẽ không bán tháo cổ phiếu chỉ vì những dự đoán vô căn cứ về cú sụt trên thị trường của một nhà thống kê tai tiếng.” Irving Fisher cũng lên tiếng. Ông nói rằng cổ tức đang gia tăng, rằng những nghi ngại về cổ phiếu thường đang lắng xuống, và các quỹ tín thác đầu tư giờ đây cung cấp cho các nhà đầu tư “sự đa dạng hóa rộng khắp và được quản lý tốt”. Kết luận của ông là: “Có thể giá cổ phiếu sẽ suy giảm, nhưng nó không hề liên quan đến cuộc khủng hoảng.” Cũng bàn về chủ đề này, Quỹ tín thác đầu tư Boston cảnh báo rằng dư luận nên chuẩn bị tinh thần cho những bước lùi nhẹ, nhưng cũng cần nhận thấy chúng sẽ qua mau. Trong các quảng cáo quy mô lớn, họ thừa nhận: “Khi các cú sụt nhất thời xảy đến, thì những vết lõm trên đường cong luôn đi lên của sự thịnh vượng Mỹ, các cổ phiếu cá nhân, thậm chí cả các công ty thành công nhất cũng đi xuống theo tình hình chung…” Tuy nhiên, họ tuyên bố thêm rằng: “Công ty Incorporated Investors sẽ hạ cánh êm ái”. Cú sụt Babson, như người ta đặt tên, xảy đến vào thứ Năm. Thị trường ào lên vào thứ Sáu và không suy suyển vào thứ Bảy. Người ta dường như đã vượt qua nỗi sợ hãi. Có vẻ như đường cong luôn đi lên sẽ lại bắt đầu, như nó vẫn từng đi lên bất chấp lời cảnh báo của Babson. Tuần tiếp theo – từ ngày 9 tháng 9 – một lần nữa giá lại tụt xuống. Thứ Hai, tờ New York Times, với sự cẩn trọng do thái độ bi quan quá sớm, ám chỉ rằng cái kết đã đến và nói thêm: “Đó là đặc điểm vốn có của các thời kỳ bùng nổ mà người ta hầu như không nhận ra rằng chúng có thể kết thúc theo cái cách cũ rích và khó chịu như vậy.” Thứ Tư, trong một ví dụ điển hình của việc ca tụng thị trường, Wall Street Journal nhận xét: “tình trạng trồi sụt của các cổ phiếu lớn ngày hôm qua tiếp tục cho thấy cú đột phá lớn đang tạm thời tiến chậm lại do những điều chỉnh về mặt kỹ thuật”. Thị trường vẫn tiếp tục lên xuống thất thường. Có những ngày thị trường rất khỏe mạnh, nhưng có những ngày lại hoạt động rất yếu. Xu hướng của thị trường lúc đó được cho là hơi đi xuống nhưng nếu nhìn lại, thật ra nó đã xuống dốc. Nhiều quỹ tín thác mới vẫn được thành lập, nhà đầu tư đổ xô vào thị trường ngày càng nhiều, và lưu lượng nợ qua các nhà môi giới tiếp tục tăng chóng mặt. Đoạn kết của sự bùng nổ đã tới, nhưng vẫn chưa hiện rõ mặt. Có lẽ điều này là bình thường. Những giây phút cuối cùng của cuộc sống rất cần được nâng niu. Ngày 11 tháng 9, vẫn tiếp tục những hoạt động thông thường, Wall Street Journal đăng tải danh ngôn trong ngày. Và đó là những lời của Mark Twain. Đừng xa rời những ảo mộng của mình; không có chúng, bạn vẫn có thể tồn tại, nhưng đã ngừng sống. Chú thích 66 (24) Irving Fisher (1867 – 1947): nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ theo trường phái tân cổ điển - ND. (25) Paul Moritz Warburg (1868 — 1932): một chủ ngân hàng người Mỹ gốc Đức-Do Thái, và là một trong những thành viên đầu tiên của Hội đồng Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang. Tên ông được đặt cho tên vị trí giáo sư kinh tế tại đại học Harvard - ND. (26) Thế giá xuống, hay còn gọi là thế đoạn vị (short position): Là vị thế mà tại đó nhà đầu tư đã tham gia một thương vụ thông qua các công cụ phái sinh như hợp đồng quyền chọn mua, hợp đồng quyền chọn bán, hợp đồng kỳ hạn, v.v… và sẽ kiếm lời khi giá cổ phiếu giảm - ND. (27) Ngày Lao động (Labor Day): một ngày nghỉ lễ hàng năm của Mỹ, tổ chức vào thứ Hai đầu tiên của tháng 9 - ND. (28) Trong bóng chày, home run là cú đánh cho phép người đánh chạy quanh ghi điểm mà không cần dừng lại - ND. 67 CHƯƠNG V Sụp đổ Theo quan điểm (được thừa nhận rộng rãi) về những sự kiện này, mùa thu năm 1929, nền kinh tế đã chìm sâu vào suy thoái. Tháng 6, các chỉ số công nghiệp và sản lượng của các nhà máy đều đạt đỉnh và bắt đầu chuyển hướng. Tới tháng 10, chỉ số sản lượng công nghiệp của Cục Dự trữ Liên bang chững lại ở mức 117 so với mức 126 của bốn tháng trước đó. Sau tháng 6, sản lượng thép bắt đầu giảm; tới tháng 10, khối lượng hàng hóa chuyên chở theo đường sắt cũng giảm đáng kể. Ngay cả ngành công nghiệp sôi động nhất là xây dựng cũng suy giảm từ vài năm trước đó, và chìm sâu hơn vào năm 1929. Cuối cùng, thị trường chứng khoán cũng đi xuống. Một sinh viên am hiểu về biểu hiện của kinh tế trong giai đoạn này đã nói rằng sự sụt giảm của thị trường “phản ánh rộng khắp sự thay đổi hiển nhiên trong bức tranh công nghiệp”. Vì lẽ đó, thị trường chứng khoán được coi là cái gương, mà có lẽ trong hoàn cảnh hơi muộn mằn này, đã phản ánh một hình ảnh ngầm hay gốc rễ của thực trạng nền kinh tế. Quan hệ nhân quả luôn lan từ nền kinh tế sang thị trường chứng khoán chứ không bao giờ theo chiều ngược lại. Năm 1929, nền kinh tế đương đầu với khó khăn. Và cuối cùng, cơn bão ấy được thể hiện mạnh mẽ trên Phố Wall. Năm 1929, người ta có những lý do xác đáng, hay ít nhất là mang tính chiến lược cho quan điểm này, và thật dễ hiểu tại sao quan điểm này lại trở thành một học thuyết. Ở Phố Wall, cũng như bất kỳ nơi nào khác vào năm 1929, chỉ có rất ít người nghĩ đến nguy cơ về một đợt khủng hoảng tồi tệ. Ở Phố Wall, cũng như bất kỳ nơi nào khác, người ta có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của câu thần chú. Khi thị trường chứng khoán sụp đổ, rất nhiều cư dân Phố Wall ngay lập tức cảm nhận được hiểm nguy thật sự, rằng thu nhập và việc làm – hay sự thịnh vượng nói chung – sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Điều này phải được ngăn chặn. Bùa phép giải cứu sẽ càng linh nghiệm khi càng có nhiều nhân vật quan trọng cam đoan rằng khủng hoảng sẽ không xảy ra. Và quả thật, những nhân vật có tiếng tăm đã làm như thế. Họ lý giải thị trường chứng khoán chỉ là lớp váng bề nổi và trọng tâm thật sự của nền kinh tế nằm ở sản xuất, việc làm và tiêu dùng, và những yếu tố này sẽ không bị ảnh hưởng gì. Không ai biết chắc điều này có đúng hay không. Là một công cụ của chính sách kinh tế, câu thần chú không cho phép sự tồn tại của bất kỳ nghi ngờ hay đắn đo nào, dù là nhỏ nhất. Trong những năm hậu khủng hoảng, việc tiếp tục nhấn mạnh sự vô can của thị trường chứng khoán là rất cần thiết. Nhưng đợt suy thoái này lại là trường 68 hợp đặc biệt khó có thể tán đồng. Phố Wall không phải lúc nào cũng được coi là biểu tượng của đời sống Mỹ. Tại một số vùng mộ đạo, những người đầu cơ cổ phiếu – hay còn bị gọi khinh miệt hơn là con bạc – không được coi là những người đức cao vọng trọng trong xã hội. Mọi lời giải thích quy đợt suy thoái cho sự sụp đổ của thị trường, đều được đưa ra nghiêm túc, và nó chứng tỏ có những vấn đề nghiêm trọng đang diễn ra trên Phố Wall. Chắc chắn Phố Wall sẽ vẫn tồn tại, nhưng nó sẽ có những vết nhơ. Chúng ta cần hiểu rõ rằng không hề tồn tại một kế hoạch nghiêm túc nào nhằm giảm thiểu những hậu quả mà sự sụp đổ của Phố Wall gây ra cho nền kinh tế. Dường như với những người có bản năng tồn tại kiểu bảo thủ, tốt nhất là nên đặt Phố Wall ra xa những điều như thế, bởi nó rất dễ bị tổn thương. Trên thực tế, bất kỳ lý giải dễ nghe nào về những sự kiện xảy ra vào mùa thu năm 1929 và những năm sau đó đều phải công nhận vai trò quan trọng của thời kỳ bùng nổ đầu cơ và sự sụp đổ nảy sinh từ đó. Cho tới tháng 9 hoặc tháng 10 năm 1929, các hoạt động kinh tế chỉ giảm sút nhẹ. Khi thị trường còn chưa sụp đổ, người ta vẫn có thể tiếp tục giả định có lý rằng chiều hướng đi xuống này sẽ nhanh chóng đảo chiều, cũng như một chiều hướng tương tự đã đảo chiều vào năm 1927, hay sau đó là vào năm 1949. Không có lý do nào để tin rằng tai họa sẽ xảy ra. Không ai có thể nghĩ rằng, sản lượng hàng hóa, giá cả, thu nhập, và tất cả các chỉ số khác sẽ tiếp tục co lại trong suốt ba năm dài và u ám tiếp theo. Chỉ sau khi thị trường sụp đổ, người ta mới nhao nhao cho rằng mọi thứ sẽ ngày càng tồi tệ hơn trong một thời gian dài. Theo những diễn biến trước đó của thị trường, có thể kết luận rằng, khủng hoảng không xảy ra vì thị trường ý thức được đợt suy thoái trầm trọng đang tiến gần. Khi thị trường trượt dốc, người ta không thể biết trước suy thoái sẽ xảy ra. Có khả năng, sự sụt giá của các chỉ số đã đánh động các nhà đầu cơ, khiến họ lo sợ bán tháo cổ phiếu, và do đó, chọc thủng quả bong bóng mà rồi một ngày nào đó cũng sẽ bị chọc thủng. Lời giải thích này có vẻ hợp lý. Có lẽ, chính vì thế nó đã thuyết phục được những người đang theo dõi các chỉ số bán ra, và khuyến khích những người khác làm theo. Điều này không thật sự quan trọng, vì bản chất của bùng nổ đầu cơ là gần như bất cứ điều gì cũng có thể đánh gục nó. Bất cứ cú sốc nghiêm trọng nào làm lung lay sự tự tin cũng sẽ ảnh hưởng tới doanh thu của các nhà đầu cơ, những người luôn cho rằng mình sẽ rút chân ra trước khi cú sụt cuối cùng xảy đến, nhưng chỉ sau khi đã gặt hái tất cả lợi nhuận từ việc giá cả tăng. Sự bi quan của họ sẽ lan sang những cái đầu đơn giản hơn, những người luôn nghĩ rằng thị trường sẽ đi lên mãi, nhưng giờ đây, cũng đã thay đổi quyết định và bán ra. Chẳng mấy chốc sẽ xuất hiện các yêu cầu tăng tiền đặt cọc, số người buộc phải bán ra ngày càng nhiều. Và bong bóng sẽ vỡ. 69 Theo Phố Wall, cùng với sự trượt dốc của các chỉ số còn có hai sự kiện khác đã góp phần quan trọng vào việc chọc thủng bong bóng. Ở Anh, ngày 20 tháng 9 năm 1929, chuỗi công ty của Clarence Hatry đột ngột sụp đổ. Hatry là một trong những nhân vật phi-Anh quốc đến tò mò mà người Anh đôi lúc vẫn thấy khó đối mặt. Năm 20 tuổi, Hatry đã có sự nghiệp tài chính rất vững chắc. Khi đó, ông đã gây dựng được một đế chế công nghiệp và tài chính với quy mô thật sự ấn tượng. Đáng chú ý hơn, cốt lõi của thành công này lại nằm ở việc kinh doanh máy bán hàng và máy chụp ảnh tự động. Từ những hoạt động kinh doanh chẳng có vẻ gì hấp dẫn, ông đã tiến thẳng vào các quỹ tín thác đầu tư và tài chính cao cấp. Sự bành trướng của Hatry phần nhiều là nhờ vào việc phát hành các cổ phiếu không được phép phát hành, và khối lượng tài sản ngày càng tăng khi làm giả giấy chứng nhận cổ phiếu, và các hoạt động tài chính không chính thống. Trong câu chuyện năm 1929, việc lột mặt Hatry ở London được cho là đã giáng một đòn mạnh vào niềm tin tại New York. Cùng với vụ xì-căng-đan của Hatry trong thời gian này là việc Ủy ban Tiện ích công cộng Massachusetts không cho phép Boston Edison tách cổ phiếu ra thành 4. Theo lập luận của Boston Edison, tách cổ phiếu là xu hướng chung. Không đi theo xu hướng chung đồng nghĩa với nguy cơ bị coi là kẻ lạc hậu. Từ trước tới nay, việc từ chối này chưa có tiền lệ. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại đó, ủy ban này còn sát thêm muối vào vết thương bằng cách thông báo một cuộc điều tra giá cổ phiếu của công ty và đề nghị công ty thừa nhận giá trị hiện hành của cổ phiếu, “do hành động của các nhà đầu cơ” đã đạt mức mà “không ai, theo quan điểm của chúng tôi… xét trên cơ sở lợi nhuận, sẽ có lợi nếu mua chúng”. Đó là những lời thô lỗ. Chúng có tác động chẳng kém gì việc vạch mặt Clarence Hatry. Nhưng nó cũng cho thấy sự cân bằng vốn dĩ đã không ổn định nay bị phá vỡ chỉ đơn giản bằng một quyết định tự phát. Ngày 22 tháng 9, những trang tài chính trên các tờ báo của New York đăng tải quảng cáo của một dịch vụ đầu tư với dòng tít hấp dẫn LƯU LẠI QUÁ LÂU TRÊN THỊ TRƯỜNG BÒ TÓT. Quảng cáo viết: “Phần lớn các nhà đầu tư kiếm tiền trên thị trường bò tót, chỉ để mất tất cả lợi nhuận kiếm được – và đôi lúc còn nhiều hơn thế – trong quá trình tái điều chỉnh không thể tránh khỏi diễn ra sau đó.” Không phải sự trượt dốc của chỉ số công nghiệp Dự trữ Liên bang, việc vạch mặt Hatry, hay sự từ chối bất thường của Ủy ban Tiện ích công cộng Massachusetts mà có thể chính suy nghĩ của hàng chục, rồi hàng trăm, và cuối cùng là hàng ngàn người đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ bùng nổ. Chúng ta không biết nguồn gốc khuấy động những nghi ngờ này bắt đầu từ đâu, nhưng điều đó lúc này không còn quan trọng nữa. II 70 Lòng tin không tan biến ngay lập tức. Như đã nói, trong suốt tháng 9 và tháng 10, dù xu hướng chung của thị trường là đi xuống, nhưng vẫn có những ngày tươi đẹp. Khối lượng giao dịch đạt mức cao. Trên Sàn Giao dịch Chứng khoán New York, khối lượng giao dịch gần như luôn vượt mức 4 triệu, và thường xuyên trên 5 triệu. Trong tháng 9, các đợt phát hành mới xuất hiện với khối lượng cao hơn nhiều so với tháng 8, và chúng thường đưa ra một mức phí cao hơn giá bán ra. Ngày 20 tháng 9, New York Times đưa tin cổ phiếu của tập đoàn mới nổi Lehman Corporation được chào bán với mức giá 104 đôla đã được bán ra với giá 136 đô-la vào ngày trước đó. (Trong trường hợp của quỹ tín thác đầu tư được quản lý tốt này, sự hứng khởi của dư luận không hoàn toàn là lầm lẫn). Trong tháng 9, lượng nợ môi giới tăng thêm gần 670 triệu đôla, mức tăng lớn nhất từ trước cho tới thời điểm này. Rõ ràng, ngọn lửa đầu cơ vẫn chưa hề nguội. Các dấu hiệu khác cũng cho thấy các vật thần thánh của Kỷ nguyên Mới vẫn còn trong đền. Trong số báo ra ngày 12 tháng 10, tờ Saturday Evening Post đăng trên trang nhất bài viết của Issac F. Marcosson về Ivan Kreuger. Đây là tin sốt dẻo, bởi trước đó giới báo chí rất khó tiếp cận được Kreuger. “Giống như Hoover, Kreuger”, Marcosson nhận xét, “là một kỹ sư. Ông luôn áp dụng sự chính xác của kỹ thuật vào mối hàn của ngành công nghiệp trải rộng này.” Đây không phải là nét tương đồng duy nhất. “Cũng giống như Hoover”, tác giả thêm vào, “Kreuger thống trị thuần túy bằng lý lẽ.” Trong cuộc phỏng vấn, Kreuger thẳng thắn chia sẻ một điểm. Ông nói với Marcosson: “Tất cả những thành công tôi có được đều là nhờ ba điều: Một là im lặng, hai là im lặng, và thứ ba là im lặng hơn nữa.” Đó là sự thật. Hai năm rưỡi sau, Kreuger tự tử trong căn hộ của mình tại Paris, và chính ác cảm của ông đối với việc tiết lộ thông tin, đặc biệt là những thông tin chính xác, đã khiến ngay cả những người thân quen nhất cũng không hề hay biết về vụ gian lận lớn nhất trong lịch sử. Tổ chức ký nhận thanh toán các hợp đồng bảo hiểm của ông, công ty Lee, Higginson and Company nổi tiếng ở Boston, chưa từng nghe và cũng không hề hay biết chuyện gì. Dù có chân trong ban giám đốc của tập đoàn Kreuger, nhưng Donald Durant, thành viên của Lee, Higginson and Company, chưa bao giờ tham dự một buổi họp ban giám đốc nào, và chắc chắn là nếu có tham dự, ông cũng không nắm được nhiều thông tin hơn. Trong những tuần cuối cùng của tháng 10, Tạp chí Times non trẻ và thiếu thông tin còn cho đăng hình Kreuger trên bìa tạp chí kèm theo dòng chữ “người ngưỡng mộ Cecil Rhodes”. Rồi một tuần sau đó, như để nhấn mạnh niềm tin của mình vào Kỷ nguyên Mới, tạp chí này lại tiếp tục tung hô Samuel Insull. (Hai tuần sau đó, khi những ảo tưởng bồng bột tan biến, vị trí danh dự trên tờ tin tức hàng tuần này được nhường chỗ cho Warden Lawes của Sing 71 Sing.) Cũng trong những ngày thu muộn này, Wall Street Journal cho đăng tải thông báo chính thức rằng Andrew Mellon sẽ tiếp tục ở lại nội các ít nhất là cho tới năm 1933 (trước đó đã có tin đồn rằng ông này sẽ từ chức) và nhận xét: “Một lần nữa, sự lạc quan lại thắng thế… Thông báo này… có tác dụng khôi phục lòng tin hơn bất kỳ điều gì.” Tại Đức, Charles E. Mitchell khẳng định: “điều kiện công nghiệp của nước Mỹ hoàn toàn tốt đẹp,” rằng người ta chú ý quá nhiều tới nợ môi giới, và “không gì có thể ngăn cản xu thế đi lên”. Ngày 15 tháng 10, khi lên tàu về nước, ông mở rộng quan điểm của mình: “Các thị trường nhìn chung là tốt đẹp… các giá trị là nền tảng vững chắc trong sự thịnh vượng chung của quốc gia.” Cũng trong buổi tối ngày hôm đó, Giáo sư Irving Fisher đưa ra tuyên bố lịch sử về trạng thái bình ổn vĩnh viễn và nói thêm: “Tôi cho rằng trong vài tháng tới, thị trường chứng khoán sẽ bỏ xa mức ngày hôm nay.” Điều khó chịu duy nhất, trong những ngày tháng 10 này là thực tế, thị trường đang trôi dốc với tốc độ khá đều đặn. III Thứ Bảy, ngày 19 tháng 10, Washington thông báo Bộ trưởng Thương mại Lamont đang gặp khó khăn khi huy động 100.000 đô-la từ các quỹ công để trả cho chi phí bảo dưỡng chiếc thuyền buồm mang tên Corsair mà J. P. Morgan mới tặng cho Chính phủ. (Trên thực tế, Morgan vẫn chưa lâm vào tình thế cùng quẫn đến vậy: một chiếc Corsair khác, trị giá 300 triệu đô-la của tập đoàn này đang được hoàn tất tại Bath, Maine.) Còn có nhiều dấu hiệu khác có sức thuyết phục hơn về sự khan hiếm bất thường này. Các tờ báo đưa tin về sự xuống dốc của thị trường – khối lượng giao dịch trong thời gian đó giảm mạnh, chỉ số công nghiệp trung bình của Times giảm khoảng 7 điểm. Steel mất 7 điểm; General Electric, Westinghouse, và Montgomery Ward mất 6 điểm. Thị trường trong ngày hoạt động rất yếu. Trong đợt giao dịch lớn thứ hai của ngày, có 3.488.100 cổ phiếu đổi chủ. Khi đóng cửa, chỉ số công nghiệp Times đã giảm 12 điểm. Cổ phiếu blue chip giảm nghiêm trọng. Cổ phiếu ưa thích của giới đầu cơ đều tụt dốc. Chẳng hạn như, cổ phiếu J. I. Case đã trượt 40 điểm tròn. Tới Chủ nhật, các tin tức về thị trường đều được đăng trên trang nhất – New York Times chạy dòng tít: “Cổ phiếu xuống giá khi đợt sóng bán ra nhấn chìm thị trường”, và biên tập viên tài chính ngày hôm sau có lẽ đã thông báo đến 10 lần rằng đoạn kết đã đến. (Tuy nhiên, ông này cũng học được cách nói nước đôi: “Dường như, Phố Wall đã thấy được thực tế”.) Không một lời giải thích tức thời nào về cú sụt giảm này được đưa ra. Cục Dự trữ Liên bang vẫn im lặng. Babson chưa đưa ra tiên đoán mới nào. Vụ lật tẩy Hatry và hành động của Ủy ban Tiện ích công cộng Massachusetts đã diễn ra trước đó một tuần tới một tháng. Chỉ sau này, chúng mới được được lý giải. 72 Các tờ báo hôm Chủ nhật đăng tải ba phân tích trở nên quen thuộc trong những ngày sau đó. Sau phiên giao dịch ngày thứ Bảy, có khá nhiều yêu cầu tăng tiền đặt cọc được gửi đi. Điều này có nghĩa là giá trị cổ phiếu trong tay người môi giới giữ đã giảm tới mức không đủ để đặt cọc cho khoản nợ. Nhà đầu tư được yêu cầu tăng mức đặt cọc. Hai phân tích còn lại làm yên lòng mọi người hơn. Các tờ báo đều đồng tình rằng, và đây cũng là quan điểm của Phố Wall, điều tồi tệ nhất đã qua. Người ta tiên đoán, ngày hôm sau thị trường sẽ bắt đầu nhận được sự hỗ trợ có tổ chức. Sự yếu kém, nếu có, sẽ bị loại bỏ ngay tức khắc. Chưa từng có cụm từ nào có ma lực hơn cụm từ “sự hỗ trợ có tổ chức”. Hầu như ngay lập tức nó trở thành câu nói cửa miệng của tất cả mọi người và có mặt trong tất cả các bản tin thị trường. Sự hỗ trợ có tổ chức có nghĩa là những nhân vật có thế lực sẽ liên kết lại để bình ổn giá cổ phiếu tại một mức hợp lý. Nhưng tất cả vẫn chưa thống nhất về việc ai sẽ là người đứng ra tổ chức sự hỗ trợ như vậy. Một số người nghĩ đến những ông lớn như Cutten, Durant và Raskob. So với tất cả mọi người, họ là những người không muốn và không thể để việc sụp đổ xảy ra nhất. Một số người lại nghĩ tới các giám đốc ngân hàng – Charles Mitchell đã từng đóng vai trò này một lần, và hiển nhiên, nếu mọi chuyện xấu đi, rất có thể một lần nữa ông sẽ đảm đương trọng trách này. Một số lại nghĩ đến các quỹ tín thác đầu tư. Họ nắm giữ các danh mục đầu tư khổng lồ, và rõ ràng là họ không thể để chúng mất giá. Quan trọng hơn, họ có tiền vốn. Vì thế, nếu cổ phiếu có thật sự mất giá thì quỹ tín thác đầu tư cũng sẽ lao vào thị trường để gom góp các món hời. Điều này có nghĩa là các món hời sẽ không kéo dài lâu. Khi có quá nhiều người muốn tránh cú trượt sâu, một cú trượt như thế sẽ không thể xảy ra. Trong những tuần tiếp theo, kỳ nghỉ Sabbath đã đánh dấu một xu hướng gây bất an, nghi ngờ, bi quan và dẫn đến quyết định rút lui khỏi thị trường vào ngày thứ Hai sau đó. Đó chính là những gì xảy ra vào ngày Chủ nhật, 20 tháng 10. IV Ngày thứ Hai, 21 tháng 10 là một ngày xấu. Tổng khối lượng giao dịch trên thị trường là 6.091.870. Đây là đợt giao dịch lớn thứ ba trong lịch sử, và hàng vạn người theo dõi thị trường khắp cả nước đã có một phát hiện gây chấn động. Người ta không có cách nào nói rõ chuyện gì đang diễn ra. Trước đây, vào những ngày đỉnh điểm của thị trường bò tót, băng điện báo thường truyền tín hiệu chậm và người ta không nhận ra mình đã giàu lên như thế nào cho tới khi thị trường đóng cửa. Nhưng kinh nghiệm của nhà đầu tư khi thị trường trượt dốc còn ít hơn nhiều. Mãi đến tháng 3 trở đi, băng điện báo chậm hẳn sau những điểm giá trị sụt giảm. Lần đầu tiên, nhiều người biết rằng họ có thể 73 bị hủy hoại hoàn toàn và mãi mãi, mà không hay biết gì. Và nếu họ không bị hủy hoại, thì vẫn có một khuynh hướng đang tồn tại mạnh mẽ khiến họ tưởng tượng ra điều đó. Khi mở cửa phiên giao dịch ngày 21, băng điện báo đã bị chậm, và tới trưa nó đã muộn một tiếng. Mãi đến 1 giờ 40 phút sau khi thị trường tạm nghỉ, nó mới ghi lại giao dịch cuối cùng. Lúc này, cứ sau 10 phút, giá của các cổ phiếu lại được cập nhật trên băng điện báo, nhưng sự chênh lệch giữa giá cổ phiếu và giá in trên băng chỉ làm tăng sự bất an – và bồi thêm niềm tin cho rằng bán ra là giải pháp tốt nhất. Mọi thứ dù chuyển hướng xấu nhưng cũng không phải là vô vọng. Khi hoạt động giao dịch của ngày thứ Hai gần kết thúc, thị trường rộ lên và giá cuối ngày cao hơn mức giá thấp nhất của ngày hôm đó. Lỗ ròng đã thấp hơn nhiều so với hôm thứ Bảy. Thứ Ba đem lại mức lãi nhẹ. Như trước đây, đó sẽ là dấu hiệu khôi phục của thị trường. Người ta sẵn sàng coi kinh nghiệm này chỉ như một bước lùi nữa trong vô số những bước lùi trước đó. Khi làm như vậy, họ đã được hai người mà giờ đã trở thành những nhà tiên tri chính thức của Phố Wall giúp đỡ. Hôm thứ Hai tại New York, Giáo sư Fisher nói rằng sự sụt giảm chỉ là một biểu hiện của việc “rũ khỏi thành phần cực đoan”. Ông tiếp tục giải thích tại sao ông cảm thấy giá cổ phiếu trong thời kỳ bùng nổ vẫn chưa theo kịp giá trị thật của chúng và sẽ còn tăng lên. Một trong những lý do quan trọng là thị trường vẫn chưa thể hiện những tác động có lợi của lệnh cấm khiến công nhân Mỹ “làm việc có hiệu quả và đáng tin hơn”. Thứ Ba, Charles E. Mitchell bỏ neo ở New York với nhận xét “đợt sụt giảm đã lùi xa”. (Thời gian và các cuộc điều tra của tòa án và quốc hội đã cho thấy Mitchell có những lý do cá nhân mạnh mẽ để có cảm giác này.) Ông nói thêm rằng các điều kiện “về căn bản đều tốt”. Một lần nữa, ông nhắc lại, người ta đã chú ý quá nhiều tới nợ môi giới, và kết luận, tình trạng này sẽ tự hồi phục nếu không bị can thiệp. Tuy nhiên, một gợi ý nghịch tai đến từ Babson đã xuất hiện. Babson kêu gọi các nhà đầu tư bán cổ phiếu và mua vàng. Cho tới thứ Tư, ngày 23 tháng 10, hiệu quả của những lời cổ vũ, trấn an này đã yếu đi đôi chút. Thay vì có thêm lợi nhuận, nhà đầu tư giờ đây bị thua lỗ nặng. Thị trường mở cửa thật yên ắng. Tới giữa buổi sáng, các cổ phiếu của ngành sản xuất phụ tùng ô tô được bán nhiều, và khối lượng giao dịch của các cổ phiếu bắt đầu tăng đồng loạt. Vào giờ cuối cùng, sự kiện lạ lùng đã xảy ra – 2,6 triệu cổ phiếu đổi chủ tại mức giá trượt dốc nhanh đến chóng mặt. Chỉ số công nghiệp trung bình của Times ngày hôm đó giảm từ 415 xuống còn 384 điểm, mất toàn bộ số điểm tăng được kể từ cuối tháng 6 năm trước. Tel and Tel mất 15 điểm, General Electric 20, Westinghouse 25, và J. I. Case 46 điểm. Một lần nữa, băng điện báo lại chậm. Bồi thêm vào tình hình bất ổn, một cơn bão băng từ Middle West đã gây gián đoạn thông tin trên diện rộng. Chiều và 74 tối hôm đó, hàng ngàn nhà đầu cơ quyết định rút chạy dù lợi nhuận, theo phán đoán sai lầm của họ, là vẫn tốt. Hàng ngàn nhà đầu cơ khác được thông báo rằng nếu họ không tăng mức thế chấp, họ sẽ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc rút khỏi, vì khi hoạt động của ngày kết thúc, các lệnh gọi ký quỹ được thực hiện với một khối lượng chưa từng thấy. Trong bài phát biểu tại Washington, ngay cả Giáo sư Fisher cũng bớt lạc quan đi đôi phần. Tại một buổi họp mặt của các giám đốc ngân hàng, ông nói: “sự tăng giá chứng khoán trong phần lớn trường hợp đều không phải do lạm phát”. Tuy nhiên, ông không hề coi nhẹ những hiệu quả ngầm của lệnh cấm. Các bài báo tối hôm đó được chuyển đến xưởng in với món quà lưu niệm còn sót lại của một kỷ nguyên đang trôi qua rất nhanh. Các trang quảng cáo tuyên bố đợt khuyến mại mới, giấy chứng nhận cổ phiếu Aktiebolaget Kreuger and Toll giá 23 đô-la. Cũng có chút tin mừng. Người ta dự đoán, chắc chắn, ngày hôm sau, thị trường sẽ nhận được “sự hỗ trợ có tổ chức”. V Thứ Năm, ngày 24 tháng 10 là ngày đầu tiên lịch sử nhận dạng sự hoảng loạn của năm 1929. Nếu đo bằng sự bất ổn, sợ hãi và rối loạn, ngày hôm đó rất đáng để chúng ta xem xét. Có tất cả 12.894.650 cổ phiếu được trao tay, với mức giá làm tan biến mọi giấc mơ và xóa nhòa hy vọng của những người sở hữu chúng. Không có bí ẩn nào trong giao dịch chứng khoán lại khó giải thích như câu hỏi tại sao với mỗi người bán ra lại có một người mua vào. Ngày 24 tháng 10 năm 1929 cho thấy chân lý ấy không phải lúc nào cũng đúng. Thường thì không có người mua, và chỉ sau những cú sụt lớn theo chiều thẳng đứng mới có một số người muốn ngã giá. Cơn hoảng loạn không kéo dài cả ngày. Nó là hiện tượng của những giờ buổi sáng. Phiên mở cửa của thị trường diễn ra bình thường, và trong một thời gian, giá cả khá ổn định. Tuy nhiên, khối lượng giao dịch tăng lên nhanh chóng, kéo theo đó là giá cổ phiếu giảm dần. Một lần nữa, băng điện báo lại chạy không kịp. Giá cổ phiếu tụt sâu hơn, nhanh hơn, và băng điện báo ngày càng chậm trễ hơn. Đến 11 giờ, thị trường đã biến thành thành một mớ bòng bong điên loạn trong cơn sốt bán tháo. Trong các văn phòng chật kín người trên khắp nước Mỹ, băng điện báo là bằng chứng của sự sụp đổ kinh hoàng. Các bảng giá được chọn đăng trên băng điện báo cũng cho thấy giá trị hiện hành đã bỏ xa mức thấp nhất trong lịch sử trước đó. Sự bất an khiến ngày càng nhiều người bán ra. Cho tới 11 giờ 30 phút, thị trường đã đầu hàng trước sự sợ hãi mù quáng. Cơn hoảng loạn thật sự đã đến. Bên ngoài Sàn Giao dịch chứng khoán trên phố Broad, người ta nghe thấy một tiếng hét thất thanh. Một đám đông xúm lại xem. Cảnh sát trưởng Grover Whalen biết đã có chuyện xảy ra và điều ngay một nhóm cảnh sát đặc biệt 75 xuống Phố Wall để đảm bảo an ninh. Dòng người đổ xô đến xem càng lúc càng nhiều. Họ chờ đợi, dù không ai biết mình đang chờ đợi điều gì. Một công nhân xuất hiện trên nóc một tòa nhà chọc trời để sửa chữa gì đó. Cả đám đông tưởng ông này sẽ tự vẫn và nóng lòng chờ ông nhảy xuống. Người ta cũng tụ tập xung quanh các văn phòng chi nhánh của những công ty môi giới trên toàn thành phố, hay đúng ra là trên khắp cả nước. Những điều đang diễn ra, hay điều mà họ nghĩ là đang diễn ra được những người trong nội bộ công ty hay nhân viên của công ty sản xuất băng điện báo Trans- Lux truyền ra ngoài. Theo một nhà quan sát, biểu hiện của mọi người cho thấy “họ không có vẻ khổ sở như kiểu hoài nghi đến sợ hãi”. Tin đồn nối tiếp tin đồn lan khắp Phố Wall và bay đến cả những vùng xa xôi. Cổ phiếu rẻ như bèo. Sàn Giao dịch Chicago và Buffalo đóng cửa. Làn sóng tự sát xuất hiện, và 11 nhà đầu cơ nổi tiếng đã tự kết liễu cuộc đời mình. Vào lúc 12 giờ 30 phút, nhân viên của Sàn Giao dịch Chứng khoán New York đã đóng cửa phòng trưng bày cảnh tượng hỗn loạn dành cho khách tham quan. Một vị khách vừa rời khỏi phòng trưng bày đã chứng tỏ vai trò đáng kể của mình. Đó là cựu Bộ trưởng Tài chính Anh, Winston Churchill. Chính Churchill là người từng đưa nước Anh trở lại chế độ bản vị vàng và đồng bảng định giá quá cao vào năm 1925. Do đó, ông cũng chính là người phải chịu trách nhiệm trước sức ép buộc Montagu Norman phải cầu khẩn New York nới lỏng chính sách tiền tệ, hành động đã dẫn đến việc nới lỏng tín dụng tại thời điểm chết người sau đó, và theo quan điểm của giới học giả, đây là nguyên nhân chính dẫn đến bùng nổ kinh tế. Lúc này đây, Churchill đang ngắm nhìn công trình khủng khiếp do mình tạo ra. Không có bằng chứng nào cho thấy Churchill bị chỉ trích. Kinh tế học chưa bao giờ là sở trường của ông, vì thế (và suy xét sáng suốt) việc ông tự chỉ trích bản thân là điều dường như không thể xảy ra. VI Ở New York, cuối cùng, đến trưa, cơn hoảng loạn đã kết thúc. Cùng lúc đó, hoạt động hỗ trợ có tổ chức mới lộ diện.
TÓM TẮT THEO ALPHABOOK
Bình luận